Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BT nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Lê Minh T, với bị đơn: ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hồ Văn K, Phan Thị Tường Kh, Hồ Thị Th, Cao Quốc H, của Tòa án nhân dân huyện G tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 02/4/2024 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:

I. NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ

* Theo lời trình bày của nguyên đơn ông Lê Minh T: Ông là chủ sử dụng phần đất thuộc thửa 71, tờ bản đồ số 01, diện tích 717,9m2 tọa lạc huyện G, tỉnh B, nguồn gốc đất do cha mẹ ông là ông Lê Văn N và bà Phạm Thị T1 tặng cho vào năm 2018.

Về nguồn gốc đất: Năm 1972, địch chiếm và đóng đồn bót trên khu vực đất của gia đình ông. Đến năm 1975, sau khi giải phóng địa phương có chủ trương ban đồn bót để trả lại đất cho dân canh tác trong đó có gia đình ông và chừa lại một phần diện tích để xây dựng doanh trại cho Đội trinh sát bảo vệ cầu kinh CS, đến năm 1980 thì giao lại cho Công an giao thông tỉnh quản lý. Lúc này một phần lô cót của địch sát mé sông bị lỡ vô trong khoảng 50m nên nhà của Công an tỉnh phải dời vô trong và xây dựng mới trên phần đất của gia đình ông (gia đình ông chỉ cho xây cất tạm). Đến năm 1992, khi cầu CS được xây dựng kiên cố lực lượng cảnh sát giao thông rút về đơn vị vì căn nhà còn nguyên vẹn nên Công an tỉnh tạm giao căn nhà nói trên cho ông Hồ Văn L sử dụng (do ông L lúc đó cũng là công an). Năm 1997 hộ bà Phạm Thị T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 411, tờ bản đồ số 01, diện tích 8.500m2, thửa 816 diện tích 800m2. Năm 2008 cấp đổi lại quyền sử dụng đất theo tọa độ thửa mới là thửa 04 tờ bản đồ số 01, tổng diện tích 13.574,7m2 cho bà Phạm Thị T1 và ông Lê Văn N.

Năm 2005 ông L xây lại nhà tường kiên cố và sử dụng cho đến nay. Gia đình ông đã nhiều lần yêu cầu ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B di dời nhà trả đất nhưng ông L, bà B vẫn cố tình ở không chịu di dời nhà trả lại quyền sử dụng đất cho gia đình ông. Ông T khởi kiện yêu cầu ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hồ Văn K, bà Hồ Thị Th, bà Phan Thị Tường Kh, ông Cao Quốc H di dời nhà trả lại cho ông quyền sử dụng đất qua đo đạc thực tế có diện tích 670,9m2 ký hiệu thửa 71, tờ bản đồ số 01 tại huyện G, tỉnh B.

* Bị đơn ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp trước ngày 30/4/1975 là đồn bót địch. Sau ngày 30/4/1975 lực lượng Công an tỉnh tiếp quản đồn này và xây dựng doanh trại cho lực lượng trinh sát bảo vệ cầu Kinh CS cho đến năm 1980 bàn giao lại cho lực lượng cảnh sát giao thông sử dụng. Đến năm 1992 Cầu Kinh CS được xây dựng kiên cố nên lực lượng bảo vệ rút về đơn vị, Giám đốc Công an tỉnh đã bố trí cho ông ở trong căn nhà này. Do nhà cũ bị hư nên Thanh tra của Bộ Công an đã hỗ trợ xây nhà tình nghĩa cho ông, gia đình ông sử dụng ổn định cho đến nay nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông T.

II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 02/4/2024 của Toà án nhân dân huyện G, quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Minh T về việc yêu cầu bị đơn ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: ông Hồ Văn K, bà Hồ Thị Th, bà Phan Thị Tường Kh, ông Cao Quốc H phải có nghĩa vụ trả lại cho ông T phần đất qua đo đạc thực tế có diện tích 670,9m2 thuộc thửa 71a, tờ bản đồ số 01 tại huyện G, tỉnh B.

Buộc ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Hồ Văn K, bà Hồ Thị Th, bà Phan Thị Tường Kh, ông Cao Quốc H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Lê Minh T giá trị phần đất có diện tích 670,9m2 thuộc thửa 71a, tờ bản đồ số 01 tại huyện G, tỉnh B với số tiền 402.540.000 đồng.

Ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Hồ Văn K, bà Hồ Thị Th, bà Phan Thị Tường Kh, ông Cao Quốc H được quản lý sử dụng phần đất và toàn bộ tài sản trên đất có diện tích 670,9m2 thuộc thửa 71a, tờ bản đồ số 01 tại huyện G, tỉnh B.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 33/DS-ST ngày 02/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện G, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án theo hướng: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Ông Lê Minh T kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 33/DS-ST ngày 02/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện G, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án theo hướng buộc ông L, bà B trả lại cho ông quyền sử dụng đất, ông không đồng ý nhận giá trị đất.

Ngày 26/4/2024 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/QĐ-VKS-DS, kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 33/DS-ST ngày 02/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện G, theo hướng: Hủy bản án dân sự sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 402/2024/DS-PT ngày 04/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh B, quyết định:

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B.

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Minh T.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 33/2024/DS – ST ngày 02 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B, cụ thể tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Minh T về việc yêu cầu bị đơn ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Văn K, bà Hồ Thị Th, bà Phan Thị Tường Kh, ông Cao Quốc H có nghĩa vụ trả lại cho ông T phần đất qua đo đạc thực tế có diện tích 670,9m2, ký hiệu thửa 71a, thuộc một phần thửa 71, tờ bản đồ số 1, tại huyện G, tỉnh B.

Ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất có diện tích 670,9m2 ký hiệu thửa 71a, thuộc một phần thửa 71, tờ bản đồ số 1, tại huyện G, tỉnh B (Có hồ sơ đo đạc hiện trạng thửa đất kèm theo).

Ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B được quyền liên hệ cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền để đăng ký kê khai quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên.

Kiến nghị cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền căn cứ quyết định của bản án để điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 71, tờ bản đồ 1, tại huyện G, tỉnh B phù hợp với bản án đã tuyên khi các đương sự có yêu cầu.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM

Phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế theo sự chỉ ranh của nguyên đơn ông Lê Minh T có diện tích 670,9m2, ký hiệu thửa 71a, thuộc một phần thửa 71, tờ bản đồ 1, huyện G, tỉnh B đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Minh T vào năm 2019. Hiện phần đất tranh chấp do gia đình ông Hồ Văn L, bà Nguyễn Thị B quản lý, sử dụng, trên đất tranh chấp có nhà, công trình kiến trúc, cây trồng của ông L, bà B.

Về nguồn gốc đất:

Ông Lê Minh T trình bày phần đất tranh chấp có nguồn gốc của gia đình ông, do phần đất giao cho Đội trinh sát Công an tỉnh B giáp mé sông bị sạt lở vô khoảng 50m nên căn nhà của Công an tỉnh B được dời vào phía trong đất của gia đình ông. Gia đình ông chỉ cho xây dựng tạm nhưng khi Công an tỉnh không còn sử dụng, không giao trả lại đất mà giao cho bị đơn sử dụng.

Ông Hồ Văn L cho rằng phần đất tranh chấp sau năm 1975 được giao cho Công an tỉnh B nên thuộc quyền sử dụng đất của Công an tỉnh B; gia đình ông được Công an tỉnh B giao quản lý, sử dụng đất ổn định từ năm 1992 đến nay.

Theo lời trình bày của các đương sự và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Công văn số 02/CV-UB ngày 05/4/1995 của Uỷ ban nhân dân xã M; Công văn số 209/UBND-TNMT ngày 10/10/2005 của Uỷ ban nhân dân huyện G; Công văn số 15/CV-CAT(PH12) ngày 17/3/2003, Công văn số 682/CAT-PH12 của Công an tỉnh B, thể hiện: thửa 71, tờ bản đồ 1, diện tích 717,9m2, tại xã M, huyện G, tỉnh B trước đây là một phần thửa 411, tờ bản đồ số 1 (diện tích 8.500m2) được Uỷ ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phạm Thị T1 vào ngày 06/12/1997. Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông Phạm Hữu L1 (ông nội của bà Phạm Thị T1) cho ông Phạm Văn P (là cha của bà T1). Ông P phát canh thu tô cho ông Trần Văn S. Năm 1950, ông S giao đất lại cho ông P nhưng do ông P có con tham gia cách mạng không trực canh nên cho ông Nguyễn Văn N1 thuê. Đến năm 1953, chiến tranh ác liệt, vị trí đất gần đồn bót nên ông N1 bỏ hoang. Năm 1954, thấy gia đình người em bà con là ông Lê Văn H1 nghèo khổ nên ông P cho ông H1 canh tác. Năm 1968, giặc đóng đồn bót tại cầu kênh CS cũ, đã rào và gài trái chiếm hết diện tích đất của ông P. Đến năm 1972, cầu kênh cũ do Pháp xây dựng đã hư hỏng nên chế độ cũ xây dựng cầu mới bằng thép cách cầu cũ khoảng 200m về phía hạ lưu và xây dựng 02 đồn bót, 01 lô cót gần mé sông. Sau năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, địa phương có chủ trương bang đồn giao trả đất cho dân canh tác và có chừa lại một phần đất để xây dựng doanh trại cho Đại Đội trinh sát bảo vệ cầu, đến năm 1980 giao lại cho Công an giao thông tỉnh B. Công an giao thông tỉnh B sử dụng đến năm 1992 thì rút về đơn vị, ngôi nhà này vẫn còn nguyên nên Công an tỉnh B giao cho ông Hồ Văn L (là cán bộ của Công an tỉnh đang khó khăn về nhà ở) quản lý, sử dụng cho đến nay.

Tại Công văn số 1336/CAT ngày 22/7/2024 của Công an tỉnh B xác định “Từ năm 1992 đến năm 2007, phần đất trên luôn bị tranh chấp, chưa giải quyết dứt điểm. Mặt khác, nguồn gốc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 1, diện tích 767m2, tất cả các hồ sơ, tài liệu Công an tỉnh lưu trữ đều thể hiện phần đất đồng chí Hồ Văn L sử dụng là của Ngành Công an tiếp quản từ năm 1975, phần đất này là nền đồn bót của Mỹ ngụy. Năm 1992, do yêu cầu nên Công an tỉnh rút chốt Cảnh sát giao thông bảo vệ cầu CS, nhà còn để nguyên, do tình hình khó khăn về nhà ở của cán bộ, chiến sĩ trong ngành, Ban Giám đốc Công an tỉnh đã thống nhất giải quyết cho đồng chí Hồ Văn L đến ở. Mặc dù không có quyết định giao đất nhưng Công an tỉnh đã nhiều lần có văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân xã M, Uỷ ban nhân dân huyện G, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện G xem xét giải quyết việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất nêu trên cho đồng chí Hồ Văn L. Năm 2005, Thanh tra Bộ Công an cũng đã xây tặng căn nhà tình nghĩa trên thửa đất trên cho đồng chí L, đồng chí L quản lý và sử dụng cho đến nay...”.

Như vậy, ông T cũng như Uỷ ban nhân dân xã M, Uỷ ban nhân dân huyện G, Công an tỉnh B đều xác định thời điểm trước năm 1975 phần đất của gia đình bà Phạm Thị T1 (mẹ của nguyên đơn) bao gồm phần đất tranh chấp đã bị chính quyền địch chiếm làm đồn bót, sau giải phóng thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước thì chính quyền địa phương đã bang đồn lấp hố bơm trả đất cho dân canh tác, gia đình bà Tám được trả lại phần đất gần 8.000m2, còn lại diện tích khoảng 1.000m2 (hiện nay là phần đất tranh chấp) do Công an tỉnh B tiếp quản làm trụ sở, vị trí đất Công an quản lý là nền đồn bót của địch. Nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp gia đình nguyên đơn giao cho Công an tỉnh mượn tạm nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xem xét. Do đó, việc Công an tỉnh B sử dụng đất tranh chấp là thực hiện theo chính sách đất đai của Nhà nước tại thời điểm sau ngày 30/4/1975, gia đình bà T1 không khiếu nại, phản đối việc này nên có cơ sở xác định phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng đất của Công an tỉnh B.

Theo Công văn số 02/CV-UB ngày 05/4/1995 của Uỷ ban nhân dân xã M và các văn bản của Công an tỉnh B cung cấp đều khẳng định thời điểm năm 1992 khi Công an tỉnh B không còn nhu cầu sử dụng phần đất tranh chấp thì Công an tỉnh B giao cho ông L quản lý, sử dụng chốt Cảnh sát giao thông trên đất tranh chấp mà không giao lại cho Uỷ ban nhân dân huyện G, Uỷ ban nhân dân xã M quản lý.

Năm 1996, Sở Địa chính tỉnh B tiến hành đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân trong xã, phần đất ông L đang sử dụng không tách thửa riêng mà nhập chung với thửa 411, tờ bản đồ số 1, có tổng diện tích 8.500m2 do bà T1 đứng tên trong sổ mục kê. Thấy rằng, tại thời điểm đăng ký kê khai đất, bà T1 không trực tiếp sử dụng đất tranh chấp mà ông L là người quản lý, sinh sống trên đất; bà T1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện Công an tỉnh B giao trả lại đất hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất giao lại cho bà T1.

Đồng thời, căn cứ Công văn số 1336/CAT ngày 22/7/2024 của Công an tỉnh B, các tài liệu chứng cứ kèm theo do Công an tỉnh B cung cấp như đơn xin cứu xét và giải quyết về việc đất đai của công dân bị chiếm bất hợp pháp của bà Phạm Thị T1, xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã M về nguồn gốc đất, giấy xác nhận của phòng hậu cần Công an tỉnh, biên bản làm việc của Thanh tra Công an tỉnh thì“Từ năm 1992 đến năm 2007, phần đất trên luôn bị tranh chấp, chưa giải quyết dứt điểm”. Như vậy, thời điểm bà T1 kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phần đất ông L đang sử dụng có tranh chấp.

Do đó, việc bà T1 được Uỷ ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 đối với thửa 411 bao gồm cả diện tích đất Công an tỉnh B giao cho ông L sử dụng là không đảm bảo điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Đất đai năm 1993Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 thì“Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Từ những căn cứ trên, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu gia đình bị đơn trả lại đất tranh chấp là không có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định phần đất tranh chấp đã được gia đình của nguyên đơn đăng ký kê khai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định pháp luật, không có ai tranh chấp từ đó xác định đất tranh chấp của gia đình nguyên đơn, buộc gia đình bị đơn trả lại 60% giá trị quyền sử dụng đất tranh chấp là không phù hợp với quá trình quản lý, sử dụng đất thực tế cũng như tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Từ đó, Tòa án cấp phúc thẩm tuyên Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 33/2024/DS – ST ngày 02 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B./.

Tú Nguyên – Phòng 9 Viện KSND tỉnh Bến Tre