Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”giữa nguyên đơn Nguyễn Thị T với bị đơn Lê NT của Tòa án nhân dân huyện Đ, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 23/4/2024 có vi phạm nên cần rút kinh nghiệm.

1. Nội dung vụ án

Nguyên đơn trình bày: Hộ bà Nguyễn Thị T được UBND huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 2099, tờ bản đồ số 1, diện tích 6.225m2, nguồn gốc đất là do tập đoàn cấp cho hộ bà T vào năm 1985. Bà T canh tác đến năm 1993 thì cho người khác thuê để canh tác. Đến khi hợp đồng thuê đến hạn thì mới biết ông Lê NT lấn chiếm đất cất nhà ở. Theo kết quả đo đạc thực tế là 898,7m2, thửa 335, tờ bản đồ số 38, xã P nên yêu cầu vợ chồng ông Lê NT, bà Phạm Thị H phải trả lại diện tích đã lấn chiếm này. Đối với phần ông NT đã bỏ chi phí bồi thố, cất nhà thì tự tháo dở, không đồng ý bồi thường.

Còn bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng có lời trình bày: vợ chồng bị đơn chỉ có duy nhất thửa đất 335, tờ số 38, diện tích thực tế đo đạc là 898,7m2. Thửa đất này do vợ chồng bị đơn mua của ông Diếp Văn C giá 4 chỉ vàng 24K từ năm 1990. Lúc mua có làm giấy tay nhưng hiện giờ bị mất do cơn bão số 9 làm sập nhà. Vợ chồng bị đơn đã đổ đất từ cái ao sâu khoảng 0,9 mét thành nền để cất nhà ở. Cất nhà tất cả là 3 lần, hai lần trước là nhà lá, lần thứ 3 là nhà tường như hiện nay. Gia đình nguyên đơn không có ai đến ngăn cản hay phản đối. Từ năm 1990, giáp đất của vợ chồng ông sử dụng đã có con kênh sườn, nguyên đơn có phần đất ở phía bên kia kênh. Con kênh sườn ngày xưa nhỏ giờ làm bằng cobe nên con kênh có rộng ra. Do vậy, ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của của nguyên đơn vì nguyên đơn chỉ có 305,7m2 còn phần đất khác không phải của nguyên đơn. Đồng thời, bị đơn có yêu cầu công sức cải tạo đất.

2. Quá trình giải quyết vụ án

- Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 23/4/2024 của TAND huyện Đ, quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T đối với ông Lê NT và bà Phạm Thị H về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất thửa 335, tờ bản đồ số 38, xã P (theo số liệu củ là phần còn lại của thửa 2009, tờ bản đồ số 01…)…

2. Kiến nghị UBND huyện Đ thu hồi Quyền sử dụng đất của hộ bà Nguyễn Thị T ở phần còn lại của thửa 2099... Theo số liệu chính quy là thửa 335, tờ bản đồ số 38, xã P.

3. Công nhận ông Lê NT, bà Phạm Thị H được quyền sử dụng đất hợp pháp thửa 335 tờ bản đồ số 38 xã P

Bản án còn tuyên chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo.

- Bản án dân sự phúc thẩm số 372/2024/DS-PT ngày 26/7/2024 của TAND tỉnh T, tuyên xử: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-DS ngày 23/4/2024 của TAND huyện Đ, tỉnh T,… giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Đ để xét xử lại theo đúng qui định của pháp luật.

3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ngày 14/7/1997, nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhiều thửa đất trong đó có thửa 2099, diện tích 6.225m2, tờ bản đồ số 01. Thửa 2099 bị tách thành 02 phần bởi một con kênh. Ngày 14/01/2021, nguyên đơn chuyển nhượng một phần thửa 2099 diện tích 5.445,4m2 (bên này kênh) nên diện tích còn lại của thửa 2099 là 779,6m2 (phía bên kia kênh) nay là thửa 335, diện tích 898,7m2, tờ bản đồ số 38 cũng là phần tranh chấp giữa các bên.

Nguyên đơn trình bày là đất tập đoàn cấp năm 1985, sử dụng đến năm 1993 thì cho người khác thuê, khi gần hết hạn hợp đồng thuê cần lấy lại đất thì mới biết bị đơn là người sử dụng đất đã cất một căn nhà trên đất tranh chấp. Nguyên đơn cho rằng diện tích đất tranh chấp là của mình nhưng khi Tòa án xem xét thẩm định, đo đạc ngày 03/2/2023 thì nguyên đơn xác định diện tích đất tranh chấp trên thực tế chỉ có 305,7m2. Sau khi Tòa án đã xác định phần còn lại của thửa 2099 hiện là thửa 335 diện tích 898,7m2 thì nguyên đơn tranh chấp toàn bộ thửa 335. Còn bị đơn cho rằng diện tích tranh chấp này một phần mua từ ông C, một phần của nguyên đơn, một phần được ông 2 B cho và canh tác từ 1990 đến nay, trước thời điểm nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã cải tạo đất từ đất trũng sâu thành đất bằng, cao ráo như hiện nay, cất nhà nhiều lần từ nhà lá thành nhà tường kiên cố nhưng phía nguyên đơn không hề hay biết. Lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn đều không có tài liệu nào chứng minh.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh gia đình bị đơn vào đất quản lý sử dụng trên cơ sở nào; không làm việc đối với ông C, ông 2 B để có căn cứ xác định nguồn gốc đất; nguyên nhân vì sao diện tích đất tranh chấp lớn hơn diện tích còn lại của thửa 2099 sau khi nguyên đơn đã chuyển nhượng. Ngoài ra, các bên thừa nhận khi nhà nước làm kênh có một đoạn đi qua cắt phần đất của nguyên đơn thành 02 phần nhưng cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ diện tích đất của nguyên đơn sau khi làm kênh còn lại bao nhiêu, mất bao nhiêu mới có cơ sở xác định diện tích đất còn lại của thửa 2099. Đối với yêu cầu bồi hoàn công sức cải tạo đất của bị đơn, tòa án cấp sơ thẩm cũng không yêu cầu bị đơn cung cấp chứng cứ chứng minh để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Đ nhận định nguyên đơn không chứng minh được quá trình quản lý, sử dụng đất và việc cấp đất cho bà T thuộc trường hợp cấp đại trà, không đúng đối tượng để từ đó không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp với chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, việc công nhận quyền sử dụng phần đất tranh chấp cho bị đơn là vượt quá yêu cầu của đương sự. Do thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để giải quyết toàn diện vụ án nên Tòa án phúc thẩm đã hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Qua kiểm sát giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đã phát hiện Bản án sơ thẩm có vi phạm nên thông báo cho các đơn vị rút kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, giải quyết các vụ án tương tự trong thời gian tới.

Thanh Thảo – Phòng 9 Viện KSND tỉnh