Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp thừa kế giữa nguyên đơn Dương Thị T với bị đơn Nguyễn Văn Ph, Nguyễn Thị Thanh Th, Nguyễn Thị Mộng Tr của Tòa án nhân dân huyện CL, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 153/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 có vi phạm cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:

1. Nội dung vụ án

* Nguyên đơn trình bày: Bà T và ông Nguyễn Văn Th kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn. Cả hai không có con chung. Cha mẹ ông Th đã chết.

Ông Th có các người con riêng là ông Nguyễn Văn Ph, bà Nguyễn Thị Mộng Tr, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Nguyễn Thị Mỹ N, ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị L.

Ngày 28/6/2021, ông Th mất. Lúc còn sống, ông Th có gởi tiền tiết kiệm ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh CL số tiền là 507.281.700 đồng.

Bà T các các con ông Th có rút tiền nhiều lần tổng cộng 400.000.000 đồng để trả viện phí cho ông Th. Số tiền còn lại sau khi ông Th mất là 130.000.000 đồng thì bà T giữ 30.000.000 đồng, ông Ph giữ 100.000.000 đồng.

Việc ông Ph cho rằng giữa bà T và ông Ph có thỏa thuận để ông Ph sử dụng hết số tiền 100.000.000 đồng để làm từ thiện (xây dựng cầu, đường ở địa phương) là không đúng, bà T không có thỏa thuận việc này. Bà yêu cầu ông Ph trả lại 100.000.000 đồng để chia thừa kế theo pháp luật. Bà T không đồng ý việc yêu cầu bà trả lại 50.000.000 đồng để nhập vào di sản để chia thừa kế vì ông Ph tự làm từ thiện. Đối với số tiền 30.000.000 đồng, bà T đã sử dụng vào việc mua vật tư xây kim tỉnh, đám cúng tuần…cho ông Th hết nên không đồng ý trả lại để nhập chung chia thừa kế và không đồng ý trừ số tiền mai táng phí mà ông N đã làm đám táng cho ông Th là 50.000.000 đồng.

Hiện tại, số tiền gởi tại Ngân hàng là 208.487.200 đồng. Bà T yêu cầu chia thừa kế là tài sản chung của cả hai gồm 208.487.200 đồng số tiền 100.000.000 đồng ông Ph đang giữ. Bà T nhận 50% số tiền nêu trên; 50% số tiền còn lại chia 07 người gồm bà T và 06 người con của ông Th.

Về chiếc xe 71H2- 5529, bà T yêu cầu nhận xe, còn 50% giá trị chiếc xe chia thừa kế cho 07 người, bà T hoàn giá trị cho các đồng thừa kế.

* Bị đơn trình bày: Thống nhất tình trạng hôn nhân và hàng thừa kế của ông Th như nguyên đơn trình bày.

Lúc còn sống, ông Th có gởi tiền tiết kiệm 600.000.000 đồng. Nguồn gốc của số tiền là do anh em của ông Th ở nước ngoài cho ông Th để dưỡng già sau khi kết hôn với bà T. Khi ông Th bị tai nạn, gia đình thống nhất rút tiền gởi ở ngân hàng ra nhiều lần để điều trị cho ông Th. Sau khi ông Th mất, ông Ph kiểm tra số tiền còn lại là 130.000.000 đồng, ông giữ 100.000.000 đồng, đưa bà T 30.000.000 đồng. Cả hai có thỏa thuận để ông Ph sử dụng hết số tiền 100.000.000 đồng để làm từ thiện. Ông yêu cầu bà T trả lại 50.000.000 đồng, ông trả lại 50.000.000 đồng để chia thừa kế. Ông đồng ý chia thừa kế theo pháp luật số tiền còn lại trong ngân hàng là 208.487.200 đồng sau khi trừ chi phí mai táng mà ông N đã tổ chức là 50.000.000 đồng; số tiền còn lại 158.487.200 đồng chia thừa kế cho 07 người.

Về chiếc xe biển số 7IH2- 5529 là tài sản riêng của ông Th, nguồn tiền mua xe là do anh em của ông Th cho. Khi ông Th bị tai nạn lao động thì ông N là người trực tiếp quản lý, sử dụng làm phương tiện đi lại chăm sóc ông Th (hiện nay ông N còn giữ giấy tờ xe, bà T đã lấy lại chiếc xe). Ông yêu cầu chia thừa kế cho 07 người mỗi người được nhận là: 8.000.000 đồng/ 07 người = 1.142.857 đồng. Ông đồng ý để ông N được nhận chiếc xe và hoàn giá trị lại cho các thừa kế.

2. Quá trình giải quyết vụ án

- Bản án dân sự sơ thẩm số 153/2023/DS-ST ngày 31/7/2023, TAND huyện CL, tỉnh BT đã tuyên:

1/. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị T đối với ông Ph, bà Th, bà Tr về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” đối với số tiền gởi tiết kiệm ngân hàng tiền là 208.487.200 đồng và chiếc xe honda biển số 71H2 – 5529 ….

Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông N, bà N, bà L về việc “Tranh chấp thừa kế”đối với số tiền gởi tiết kiệm ngân hàng số tiền là 208.487 200 đồng và chiếc xe honda biển số 71H2 – 5529…

Cụ thể: Bà T, ông Ph, bà Th, bà Tr, bà N, bà L mỗi người được nhận số tiền là 41.498.170 đồng.

Ông N được nhận số tiền là 36.926.742 đồng và chi phí mai táng là 50.000.000 đồng. Ông N được quyền sở hữu chiếc xe honda biển số 71H2 – 5529 …. Bà T có nghĩa vụ giao chiếc xe honda biển số 71H2 – 5529… cho ông N quản lý, sử dụng.

Ông N có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Ph, bà Th, bà Tr, bà N, bà L số tiền 571.428 đồng/người…, hoàn giá trị xe cho bà T là 4.571.428 đồng

Ông Ph có nghĩa vụ giao lại cho bà T, bà Th, bà Tr, ông N, bà N, bà L số tiền là 14.285.714 đồng/người ….

Đối với số tiền lãi của số tiền gửi tiết kiệm phát sinh từ ngày 01/8/2023 trở về sau thì bà T được quyền nhận…

3. Ông N có quyền và nghĩa vụ đăng ký kê khai đứng tên chiếc xe biển số 71H2-5529 ….

Bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/8/2023, bà T kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà; ngày 14/8/2023, ông Ph kháng cáo yêu cầu bà T trả lại số tiền 30.000.000 đồng và số tiền 50.000.000 đồng mà ông đã đi làm từ thiện để nhập vào chia thừa kế.

- Bản án dân sự phúc thẩm số 27/2024/DS-PT ngày 11/01/2024 của TAND tỉnh Bến Tre, quyết định:

Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà T.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Ph.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 153/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của TAND huyện CL… Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T; chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông N, bà N, bà L về việc yêu cầu chia thừa kế di sản của ông Th.

Xác định di sản thừa kế của ông Th là số tiền 119.243.600 đồng và ½ giá trị chiếc xe gắn máy biển số 71H2-5529 (là 4.000.000 đồng), tổng giá trị di sản là 123.234.600 đồng. Chia di sản của ông Th như sau:

- Bà T được nhận thừa kế là 17.606.228 đồng. Bà T được hưởng ½ tài sản chung của vợ chồng là 173.243.600 đồng (gồm giá trị ½ xe gắn máy 4.000.000 đồng và số tiền 169.243.600). Tổng giá trị tài sản bà T được nhận là 190.849.829 đồng. Giao cho bà T được quyền sỡ hữu chiếc xe gắn máy biển số 71H2-5529…Do bà T đã nhận 30.000.000 đồng và được nhận xe gắn máy nên bà T còn được nhận tiếp số tiền 152.849.829 đồng từ tài khoản tiết kiệm của ông Th …

- Ông Ph, bà Th, bà Tr, bà N, bà L, ông N mỗi người được nhận thừa kế số tiền 17.606.228 đồng.

Do ông Ph đang quản lý di sản của ông Th số tiền 100.000.000 đồng nên ông Ph có nghĩa vụ giao lại cho bà Th, bà Tr, bà N, bà L mỗi người số tiền 17.606.228 đồng; giao lại cho ông N số tiền 11.968.857 đồng.

Ông N được nhận số tiền tổng cộng 67.606.228 đồng - gồm giá trị kỷ phần thừa kế 17.606.228 đồng và 50.000.000 đồng chi phí mai táng ông Th. Ngoài số tiền 11.968.857 đồng ông N được nhận từ ông Ph, ông N được nhận tiếp số tiền 55.637.371 đồng từ tài khoản tiết kiệm của ông Th ...

- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam … có nghĩa vụ giao cho bà T số tiền 152.849.829 đồng; giao cho ông N số tiền 55.637.371 đồng từ tài khoản tên Nguyễn Văn Th...

- Đối với số tiền lãi của số tiền tiết kiệm phát sinh từ ngày 01/8/2023 trở về sau thì bà T có quyền nhận …

- Ông N có nghĩa vụ giao lại giấy tờ xe …cho bà T….

3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ông Th và bà T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn. Ngày 12/5/2021, ông Th chết không để lại di chúc. Hàng thừa kế của ông Th gồm bà T, các con riêng của ông Th gồm bà N, ông N, bà L, ông Ph, bà Th và bà Tr.

Các đương sự thống nhất yêu cầu chia di sản của ông Th gồm: Số tiền gởi tiết kiệm còn lại trong tài khoản ngân hàng 208.487.200 đồng, số tiền 100.000.000 đồng ông Ph giữ, số tiền 30.000.000 đồng bà T giữ, chiếc xe Honda biển số 71H2-5529 do ông Th đứng tên.

Các con của ông Th cho rằng đây là tài sản riêng của ông Th có được từ tiền của anh em ông Th ở nước ngoài gởi về cho riêng ông Th để dưỡng già nhưng không ai cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh. Hồ sơ vụ án cũng không có tài liệu nào thể hiện tiền và xe là tài sản do ông Th có được từ nguồn tiền nước ngoài gởi về cho riêng hay ông Th tự tạo lập riêng. Đồng thời, khi còn sống giữa ông Th và bà T không có văn bản thỏa thuận nào thể hiện các tài sản nêu trên là tài sản riêng của ông Th. Do đó, không có cơ sở xác định các số tiền nêu trên và xe honda biển số 71H52-5529 là tài sản riêng của ông Th. Các tài sản này hình thành sau khi ông Th và bà T kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân của hai người nên được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Tài sản này phải được chia hai, ông Th và bà T mỗi người là ½ tài sản nêu trên. Do đó, di sản thừa kế của ông Th được xác định là ½ của tổng tài sản chung di sản này được chia đều cho hàng thừa kế.

Đối với chiếc xe honda biển số 71H2-5529 hiện do bà T giữ xe, ông N giữ giấy tờ nhưng do ông N chỉ là người được chia một phần thừa kế trong ½ giá trị của chiếc xe nên giao cho bà T tiếp tục quản lý chiếc xe này là phù hợp.

Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện CL, tỉnh BT nhận định các khoản tiền là tài sản riêng của ông Th, chỉ có chiếc xe Honda là tài sản chung là có phần không phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bà T nên cần thiết phải sửa Bản án sơ thẩm theo hướng nhận định như trên.

Qua kiểm sát giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đã phát hiện Bản án sơ thẩm có vi phạm nên đã đề nghị Hội đồng xét xử sửa Bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử và chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre./.

Thanh Thảo – Phòng 9 Viện KSND tỉnh