Ngày 18/8/2017 Tòa án ND tỉnh Bến Tre đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa nguyên đơn L.V.M + 03 NĐ, bị đơn N.V.M tất cả cùng ngụ xã PT, huyện CT, tỉnh Bến Tre.
Theo nội dung vụ án: Cha mẹ nguyên đơn và bị đơn có tất cả 07 người con (trong đó có một người chết lúc còn nhỏ). Di sản của cha mẹ để lại gồm hai thửa đất vườn (thửa 114, 115) tại xã PT, huyện CT và thửa đất ruộng số 487 tại xã A K, huyện CT. Vào năm 2000 khi ông V là cha của các bên đương sự còn sống đã tạm chia cho các con mỗi người một phần đất để canh tác nhưng không nói rõ diện tích bao nhiêu, cũng chưa tách sổ để đứng tên quyền sử dụng. Hiện tại bị đơn đang quản lý phần đất vườn có diện tích 7.417,9m2 (trong đó có diện tích 1.802,4m2 mua lại của bà H là chị ruột bị đơn). Do việc tạm chia đất trước đây không đồng đều, anh em trong gia đình không thỏa thuận được nên phát sinh tranh chấp. Tại tòa sơ thẩm các nguyên đơn yêu cầu nhập toàn bộ 03 thửa đất để chia thừa kế, đồng thời yêu cầu chia 13 chỉ vàng 24K (do cha các đương sự chết để lại) hiện bị đơn đang quản lý. Bị đơn cho rằng khi cha còn sống ông đã được cha chia 2000m2 đất vườn, còn lại khoảng 3500m2 đất vườn và căn nhà cấp 4 là tài sản chung dùng vào việc thờ cúng (hiện nay bị đơn đang quản lý) nên bị đơn không đồng ý nhập diện tích khoảng 3500m2 để chia thừa kế.
Bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, đã chia 13 chỉ vàng 24K và nhập các thửa đất lại để chia thừa kế theo quy định của pháp luật (do ông V chết không để lại di chúc). Do không đồng ý bản án nên bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, không đồng ý chia phần đất vườn khoảng 3700m2 và căn nhà hiện nay bị đơn đang quản lý vì cho rằng đã được cha cho riêng và không đồng ý chia 13 chỉ vàng 24K, bị đơn thừa nhận có giữ 13 khâu vàng nhưng không xác định trọng lượng bao nhiêu và loại vàng gì.
Qua xem xét tài liệu thu thập trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn yêu cầu nếu các đồng thừa kế nhận đất thì phải bồi thường giá trị cây trồng do bị đơn trồng, các nguyên đơn không đồng ý; bên cạnh bị đơn cũng yêu cầu xem xét lại lối đi đối với phần đất của bị đơn được nhận vì trong họa đồ đo vẽ phần đất bị đơn nhận không thể hiện lối đi ra đường công cộng.
Mặc dù tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn không yêu cầu các nguyên đơn bồi thường giá trị cây trồng, nếu có tranh chấp thì khởi kiện thành vụ kiện khác, cũng không yêu cầu về lối đi. Tuy nhiên, để giải quyết toàn diện vụ án, tránh gây khó khăn về sau nếu phát sinh tranh chấp; Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ về Tòa án huyện Châu Thành giải quyết lại về khoản bồi thường giá trị cây trồng và xem xét lối đi cho bị đơn./.
V.T.Hoa- Phòng 9 Viện KSND tỉnh Bến Tre