Trong khoảng thời gian từ ngày 29/02/2016 đến ngày 08/3/2016, Trần Thị Y là một phụ nữ nhưng không lo chí thú làm ăn, tề gia nội trợ mà lại cùng đồng phạm thực hiện hành vi cướp giật tài sản 04 lần cụ thể như sau:
- Vụ thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 29/02/2016 trên đường Đoàn Hoàng Minh phường P T, Tp Bến Tre;Trần Thị Y đi xe mô tô giật một túi xách của bị hại Đặng Trần P bên trong có 01 mắt kính, 01 đồng hồ đeo tay, 01 máy tính học sinh, 04 quyển sách và 02 quyển tập. Tổng giá trị tài sản là 466.040 đồng.
- Vụ thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 07/3/2016 trên đường Đoàn Hoàng Minh thuộc phường 6, Tp Bến Tre; Trần Thị Y đi xe mô tô giật một túi xách của bị hại Đoàn My bên trong có 01 ĐTDĐ, 01 tay nghe, 01 bóp da, 03 USD, 20.000 đồng, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 02 thẻ khách hàng, 01 bảng tên học sinh. Tổng giá trị tài sản là 524.975 đồng.
- Vụ thứ ba: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07/3/2016 trên đường lộ xã An Khánh thuộc ấp An Phú, xã An Khánh, huyện C T, tỉnh BT; Trần Thị Y đi xe mô tô giật một túi xách của bị hại Nguyễn Thị T sinh ngày 05/6/2000 bên trong có 01 ĐTDĐ, 01 máy tính học sinh, 01 cây viết và 01 quyển tập. Tổng giá trị tài sản là 397.000 đồng.
- Vụ thứ tư: Khoảng 10 giờ ngày 08/3/2016 trên đường tỉnh 884, Tp Bến Tre; Trần Thị Y đi xe mô tô giật của bị hại Hồ Nguyễn T: 01 ĐTDĐ, 01 giỏ xách, 01 chứng chỉ nghể, 03 quyển sách và 05 quyển tập. Tổng giá trị tài sản là 3.600.310 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 70/2016/HSST ngày 08/11/2016 của TAND TPBT tuyên bố bị cáo Trần Thị Y phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng điểmd khoản 2 Điều 136, điểm b, g, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g, h khoản 1 điều 48, 20, 53, 33 BLHS, xử phạt bị cáo Trần Thị Y 03 năm tù.
* Sau khi tuyên án sơ thẩm bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo
* Tại phiên toà phúc thẩm, cùng quan điểm với Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định: xét thấy hành vi của bị cáo là rất manh động, nhiều lần phạm tội giữa ban ngày, sử dụng xe mô tô là phương tiện nguy hiểm để thực hiện tội phạm, điều này có thể làm nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người bị hại; gây hoang mang, bất bình trong nhân dân, điều này thể hiện tính xem thường pháp luật của bị cáo; vì vậy cần thiết phải xử lý thật nghiêm, có một thời gian đủ dài để cải tạo giáo dục b/c và để răn đe phòng ngừa chung. Hơn nữa khi quyết định hình phạt tòa sơ thẩm chỉ xử mức án 03 năm là mức khởi điểm của khung hình phạt và tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Với những nhận định trên Toà Phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y án sơ thẩm đã tuyên.
Nguyễn Ngọc Nồm – Phòng 7 Viện KSND tỉnh Bến Tre