Ngày 29/6/2015 Viện kiểm sát cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh ban hành thông báo rút kinh nghiệm về việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ kiện “Khởi kiện quyết định hành chính về lĩnh vực tranh chấp đất đai”. Theo bản án số 01/2014/HC-ST của Tòa án nhân dân tỉnh T đã xét xử bác đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Khá và ông Nguyễn Văn Lượng đối với quyết định hành chính của Chủ tịch UBND tỉnh T.
Nội dung vụ án: Phần đất bị tranh chấp có diện tích 4.711m2 thuộc thửa số 442, tờ bản đồ số 03 tọa lạc tại… tỉnh T có từ trước năm 1975, nằm trong 64 công đất của địa chủ Hồ Quang Hoài cho tá điền là ông Nguyễn Văn Thân (chồng bà Phạm Thị Khá) thuê để canh tác. Năm 1954 chính quyền cách mạng cải cách ruộng đất của địa chủ phong kiến chia đất lại cho nông dân, gia đình ông Nguyễn Văn Thân tự nguyện cùng chính quyền địa phương chia phần đất 64 công thành 4 phần bằng nhau cho 4 hộ gồm: Hộ ông Thân, hộ bà Chung, hộ bà Nhàn và hộ bà Tám, mỗi hộ được 16 công. Năm 1958, hộ bà Chung chuyển đi nơi khác và nhượng phần đất này lại cho bà Tám. Năm 1965 do chiến tranh các phần đất này đều bị bỏ hoang, nên chính quyền cách mạng dùng phần đất này trồng cây lá để cải tạo thành rừng, ngụy trang làm khu căn cứ. Năm 1975 do sông, rạch làm con lộ cũ bị sạt lỡ, chính quyền địa phương làm lại lộ mới cách lộ cũ khoảng 150m và cắt ngang qua phần đất của bà Tám, bà Khá. Thời gian này hộ bà Khá quản lý sử dụng phần đất, cải tạo thành đất vườn và canh tác phần đất từ lộ mới trở ra giáp ranh ấp Ng… còn phần đất của bà Tám thì cho cháu là Nguyễn Thị Dung quản lý sử dụng. Năm 1977, ông Nguyễn Văn Giang con bà Khá biết được việc phân chia giao phần đất này trước đây là của cha (là ông Thật), nên yêu cầu bà Tám trả lại 02 công đất còn dư trong quá trình do việc bàn giao đất trước đây, bà Tám không đồng ý và giữa hai hộ phát sinh mâu thuẫn. Năm 1978, gia đình bà Khá lấy lại phần đất trồng cây lá…, kể từ đó bà Tám chỉ còn quản lý sử dụng phần đất 01 công giáp với lộ mới. Năm 1983, thực hiện Chỉ thị số 299/CT-TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ nên tất cả các hộ cùng kê khai lại diện tích đất hiện đang sử dụng. Đến năm 1988, bà Tám khiếu nại tiếp việc gia đình bà Khá lấn chiếm phần đất. Năm 1992, hộ bà Tám kê khai tổng diện tích đang quản lý sử dụng là 30.600m2. Phần đất lộ mới vô lô cũ do ông Nguyễn Văn Lượng (con bà Khá) kê khai có tổng diện tích là 4.890m2 là phần đất có tranh chấp với bà Tám. Đến năm 1995, các thửa đất nêu trên đều được làm thủ tục kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy bìa đỏ) theo quy định của Luật Đất đai. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Lượng được cấp số 253 ngày 15/9/1997 do Phó Chủ tịch huyện C ký, ông Lượng được quyền sử dụng phần đất 4.890m2 gồm đất vườn 4.812m2 và đất ở 78m2, thời hạn sử dụng là ổn định, từ đó ông Lượng trồng cây ăn trái lâu năm và xây cất nhà kiên cố (BL22).
Hộ bà Lê Thị Tám sau này khiếu nại tiếp. Ngày 09/4/2001 Chủ tịch UBND huyện C ban hành Quyết định số 161/QĐ.CTH bác đơn khiếu nại của bà Lê Thị Tám về việc khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất. Công nhận hiện trạng sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Văn Lượng, diện tích phần đất…(BL19), hộ bà Tám tiếp tục khiếu nại lên UBND tỉnh T.
Ngày 01/9/2011 (tức hơn 10 năm sau), Chủ tịch UBND tỉnh T ban hành Quyết định 1397/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Cam (được bà Tám ủy quyền khiếu nại). Quyết định có nội dung: a. Thu hồi hủy bỏ Quyết định số 161 ngày 09/4/2001 của Chủ tịch UBND huyện C; b. Công nhận nội dung khiếu nại của bà Nguyễn Thị Cam về việc yêu cầu được sử dụng diện tích 4.711m2 đất thuộc thửa số 442, tờ số 03, tọa lạc tại… Vị trí đất theo biên bản khảo sát ngày 05/7/2011 của Thanh tra tỉnh và Sở Tài nguyên Môi trường; c. Buộc gia đình ông Nguyễn Văn Đầy (được mẹ là bà Phạm Thị Khá, cùng các con… và ông Nguyễn Văn Lượng tháo dỡ nhà và các công trình khác xây dựng trái phép trên phần đất 4.711m2 hiện do ông Nguyễn Văn Lượng quản lý, sử dụng để giao trả diện tích 4.711m2 thuộc thửa số… cho bà Nguyễn Thị Cam quản lý sử dụng (BL124). Sau khi gia đình bà Khá nhận quyết định số 1397 ngày 01/9/2011 thì tiến hành khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh T yêu cầu Tòa án hủy quyết định nêu trên của Chủ tịch UBND tỉnh T.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01 ngày 18/3/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh T tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Khá và ông Nguyễn Văn Lượng yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1397/QĐ-UBND ngày 01/9/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh T. Bản án tuyên phần phụ xử: Chi phí định giá… quy định nghĩa vụ án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật (BL673). Sau khi xét xử sơ thẩm các người khởi kiện có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án.
Tại bản án phúc thẩm số 50/2015/HC-PT ngày 11/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tại Thành Phố Hồ Chí Minh, nhận định:… Về thẩm quyền: Xét phần đất tranh chấp đã có đăng ký trong sổ địa chính 1983 và năm 1995 đã được làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn văn Lượng… căn cứ Khoản 3, Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Sau khi có Quyết định 161 ngày 09/4/2001 đến nay gia đình bà Khá quản lý sử dụng cất nhà ở và các công trình kiến trúc có trên đất, được UBND tỉnh hỗ trợ tiền cho gia đình liệt sỹ để cất nhà ở (có xác nhận của Giám đốc Sở Thương binh xã hội tỉnh T), nhưng Quyết định số 1397 lại buộc người khởi kiện dỡ nhà trả đất cho người liên quan là không đúng thẩm quyền. Với các phân tích trên, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Khá và ông Nguyễn Văn Lượng. Sửa án sơ thẩm. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Khá và ông Nguyễn Văn Lượng yêu cầu hủy Quyết định số 1397/QĐ-UBND ngày 01/9/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh T; hủy Quyết định số 1397/QĐ-UBND ngày 01/9/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh T. Bản án còn tuyên phần phụ xử, quy định nghĩa vụ án phí.
Tại Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 hướng dẫn thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Căn cứ tại Khoản 3, Điều 38 Luật Đất đai năm 1993, Thông tư hướng dẫn: “1.1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Tổng cục Quản lý ruộng đất (trước đây) hoặc Tổng cục Địa chính phát hành căn cứ vào Luật Đất đai năm 1987 hoặc Luật Đất đai năm 1993 theo cùng mẫu thống nhất và có số phát hành liên tục. 1.2. “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”… 1.3. Đối với đất thuộc các trường hợp được nêu tại các điểm 1.1, 1.2 trên đây thì các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất (tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất… tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất) đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
Công văn số 116/2004/KHXX của Tòa án nhân dân tối cao về việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, Công văn nêu:… thi hành Thông tư liên tịch số 01 ngày 03/01/2002 “Hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1, Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp tài sản gắn liền với đất… thì thẩm quyền của Tòa án nhân dân giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất quy định tại Khoản 1, Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 được mở rộng hơn nhiều…
Với nội dung vụ án nêu trên căn cứ vào các quy định của Luật Đất đai, Thông tư liên tịch số 01 ngày 03/01/2002 và Công văn số 116 của Tòa án nhân dân tối cao thì việc thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của bà Lê Thị Tám để ban hành Quyết định số 116/QĐ.CTH ngày 09/4/2001 của UBND huyện C là vi phạm pháp luật, đồng thời UBND tỉnh T sau 10 năm nhận đơn khiếu nại lại ban hành Quyết định số 1397/QĐ-UBND ngày 01/9/2011 về việc giải quyết khiếu nại… là không đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Trên đây là vụ án hành chính Tòa án cấp sơ thẩm khi thụ lý áp dụng căn cứ pháp luật giải quyết vụ án chưa đúng quy định pháp luật và việc UBND huyện C, UBND tỉnh T ban hành quyết định hành chính không đúng thẩm quyền theo luật định. Vì vậy, cần nghiên cứu và rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hiện tốt Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính./.
Phòng 12 – VKSND tỉnh Bến Tre