Xã hội ngày càng phát triển với những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Với việc di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác không còn là vấn đề quá khó khăn đối với con người. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó là vấn đề về tội phạm ngày càng trở nên phức tạp. Theo đó làm nảy sinh vấn đề là người nước ngoài họ không chỉ có thể phạm tội tại nơi mà họ thường trú nơi họ là công dân mà họ còn có thể phạm tội ở quốc gia khác. Hiển nhiên phạm tội thì phải chịu hình phạt theo pháp luật của quốc gia mà nơi họ thực hiện hành vi phạm tội ở quốc gia đó. Ở nước ta căn cứ theo Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “1. Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Trường hợp người nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc tập quán quốc tế thì được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao.” Và cũng theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế, hầu như mỗi quốc gia đều dành cho mình quyền xử lý về mặt hình sự theo pháp luật của nước mình đối với hành vi phạm tội của công dân nước khác trong phạm vi lãnh thổ của nước mình. Nhưng hình phạt đối với với người phạm tội không có nghĩa là cách ly, cô lập họ khỏi xã hội. Mục đích của hình phạt là phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Nói cách khác mục đích của hình phạt là giáo dục cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội và răn đe những người khác để họ không phạm tội. Xuất phát từ mục đích nhân đạo, từ việc giúp người phạm tội cải tạo tốt sớm hòa nhập với cộng đồng, pháp luật nước ta cho phép chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Theo đó người nước ngoài phạm tội đã bị tòa án kết án bằng một bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật có thể chuyển giao về nước mà họ là công dân hoặc một nước khác đồng ý tiếp nhận trên cơ sở tự nguyện của người đó để tiếp tục thi hành bản án. Theo quy định tại Điều 50 của Luật tương trợ tư pháp 2007 quy định về điều kiện chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù: “1. Người đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài có thể được tiếp nhận về Việt Nam để thi hành hình phạt tù khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là công dân Việt Nam;
b) Có nơi thường trú cuối cùng ở Việt Nam;
c) Hành vi phạm tội mà người đó bị kết án ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam;
d) Vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành hình phạt tù phải còn ít nhất là một năm; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này còn ít nhất là sáu tháng;
đ) Bản án đối với người được chuyển giao đã có hiệu lực pháp luật và không còn thủ tục tố tụng nào đối với người đó tại nước chuyển giao;
e) Có sự đồng ý của nước chuyển giao;
g) Có sự đồng ý của người được chuyển giao.
2. Người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam có thể được chuyển giao cho nước ngoài để thi hành hình phạt tù khi có các điều kiện sau đây:
a) Là công dân của nước tiếp nhận hoặc là người được phép cư trú không thời hạn hoặc có người thân thích tại nước tiếp nhận chuyển giao;
b) Có đủ các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e, g khoản 1 Điều này và đã thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản và các trách nhiệm pháp lý khác trong bản án;
c) Có sự đồng ý của nước tiếp nhận chuyển giao.”
Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là một trong những lĩnh vực của tương trợ tư pháp hình sự quốc tế. Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là biện pháp mang tính chất nhân đạo, nhân văn gắn với xu thế bảo vệ quyền con người đang ngày càng phát triển. Mục đích chủ yếu của hoạt động này là tạo điều kiện cho người bị kết án được đối xử công bằng, giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù. Ta có thể thấy chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là một sự kiện mới xuất hiện trong đời sống pháp luật hiện đại, một thành tựu khoa học pháp lý quốc tế. Ở nước ta chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù được quy định trong Luật tương trợ tư pháp 2007 tại chương 5 từ Điều 49 đến Điều 60. Khoản 1 Điều 49 Luật tương trợ tư pháp 2007 quy định: “Người đang chấp hành hình phạt tù có thể được chuyển giao đến nước mà người đó mang quốc tịch hoặc đến nước khác đồng ý tiếp nhận chuyển giao để tiếp tục chấp hành hình phạt tù mà nước chuyển giao đã tuyên đối với người đó.”.Vấn đề này còn được quy định trong Hiệp định tương trợ tư pháp các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hunggari ngày 18/01/1985 và Hiệp định tương trợ tư pháp các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ba Lan ngày 22/3/1993. Trên cơ sở quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế song phương, đa phương có thể hiểu một cách cụ thể về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù như sau: Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là một hình thức tương trợ tư pháp về hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền của quốc gia dựa trên cơ sở điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia hoặc theo nguyên tắc có đi có lại thực hiện việc chuyển giao người nước ngoài phạm tội đã bị tòa án của quốc gia đó kết án bằng một bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật về nước mà người đó là công dân hoặc một nước khác đồng ý tiếp nhận, trên cơ sở tự nguyện của người đó để tiếp tục thi hành bản án.
Như đã phân tích ở trên chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù xuất phát từ ý nghĩa xâu xa là mang tính chất nhân đạo. Mục đích nhân đạo của chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù thể hiện như sau:
Thứ nhất chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù giúp người bị kết án phạt tù có môi trường xã hội tốt, điều kiện sống, điều kiện thăm nom, gần gũi, có được sự động viên từ người thân gia đình và bạn bè từ đó sẽ tạo cho họ một suy nghĩ tích cực tinh thần lạc quan để họ quyết tâm cải tạo tốt hơn để sớm hòa nhập với cộng đồng, qua đó gián tiếp đạt được mục đích của hình phạt mà nhà nước đã đặt ra.
Thứ hai đối với người bị kết án phạt tù họ không phải gặp vấn đề về rào cản ngôn ngữ và văn hóa, giúp tăng khả năng cải tạo của họ.
Thứ ba việc chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù về nước nơi mà họ là công dân, nơi mà họ xem là quê hương sẽ làm giảm được gánh nặng về tài chính và nhu cầu cần trợ giúp lãnh sự đối với công dân bị kết án ở nước ngoài. Hơn nữa, việc chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù còn mang lại lợi ích cho nước chuyển giao và nước nhận chuyển giao. Đối với nước nhận chuyển giao, việc chuyển giao cho phép nước nhận chuyển giao sẽ giám sát họ khi được tha và dần dần giúp tù nhân tái hoà nhập cộng đồng. Đối với nước chuyển giao, việc chuyển giao làm giảm các chi phí nhà nước đó bỏ ra trong quá trình giam giữ, cải tạo người đang chấp hành án phạt tù tại quốc gia mình.
Tuy nhiên về điều kiện tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù còn một số vấn đề cần bàn luận:
Thứ nhất là về trật tự sắp xếp các điều kiện tiếp nhận hoặc chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Trong điều kiện quy định tại Điều 50 của Luật tương trợ tư pháp 2007 về ý chí của người được chuyển giao được xếp cuối cùng trong số các điều kiện. Tham khảo pháp luật của một số nước và một số công ước quốc tế về tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù để thi hành án có thể nhận thấy vấn đề ý chí của người bị chuyển giao được đánh giá rất cao và có ý nghĩa quan trọng. Sự đồng ý của phạm nhân được coi là điều kiện tiên quyết như đã nêu trên. Hoạt động tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù để thi hành án xuất phát sâu xa từ mục đích nhân đạo. Nếu không có sự đồng ý của người bị chuyển giao thì việc tiếp nhận, chuyển giao có thể sẽ không đạt được mục đích từ hoạt động này. Mặc dù điều kiện về ý chí của người bị chuyển giao dù được xếp ở vị trí nào thì về mặt nội dung phải đáp ứng đủ tất cả các điều kiện quy định tại Điều 50 thì mới có thể tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Nhưng về mặt hình thức thì trật tự sắp xếp phản ánh sự đánh giá mức độ quan trọng của các điều kiện cho nên cần đặt điều kiện về ý chí của người đang chấp hành án phạt tù ở vị trí ưu tiên cao. Điều này sẽ làm nỗi bật hơn sự nhân đạo trong vấn đề tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù đồng thời khẳng định được vai trò của nó làm để những cơ quan áp dụng pháp luật ưu tiên kiểm tra đối với những hồ sơ cụ thể.
Thứ hai về điều kiện thời hạn còn lại của phần hình phạt chưa chấp hành. Điểm d khoản 1 Điều 50 Luật tương trợ tư pháp 2007 quy định: “Vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành hình phạt tù phải còn ít nhất là một năm; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này còn ít nhất là sáu tháng”. Theo nghiên cứu thì các công ước quốc tế về chuyển giao phạm nhân để thi hành án và pháp luật của một số nước trên thế giới quy định thời hạn tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là 6 tháng và trong những trường hợp đặc biệt cho phép áp dụng thời hạn dưới 6 tháng. Các trường hợp được coi là đặc biệt như: Nước chuyển giao và nước tiếp nhận ở gần nhau, người đang chấp hành án có khiếm khuyết về thể chất hoặc tâm thần mà việc tái hoà nhập là tốt nhất ở quê hương của họ. Cho nên thiết nghĩ quy định thời hạn tối thiểu 1 năm theo pháp luật của Việt Nam là khá dài. Vì vậy Việt Nam nên áp dụng theo chuẩn chung của các công ước quốc tế, đó là giảm thời hạn này xuống 6 tháng đồng thời có quy định mở về những trường hợp đặc biệt cho phép tiếp nhận hoặc chuyển giao phạm nhân để thi hành án với thời hạn của phần hình phạt chưa chấp hành ít hơn 6 tháng để tạo cơ hội và điều kiện rộng hơn cho người đang chấp hành án phạt tù được chuyển giao về nước mà họ là công dân hoặc nước khác đồng ý tiếp nhận trên cơ sở tự nguyện của họ.
Thứ ba về điều kiện “tính tội phạm kép”. “Tính tội phạm kép” trong vấn đề này được hiểu như sau: Đó hành vi nguy hiểm cấu thành tội phạm ở nước kết án và cấu thành tội phạm của nước tiếp nhận, chuyển giao. Điểm c khoản 1 Điều 50 quy định: “Hành vi phạm tội mà người đó bị kết án ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Xuất phát từ ý nghĩa và mục đích nhân đạo của việc chuyển giao phạm nhân để thi hành án, trên thế giới đang có quan điểm và một số thực tiễn áp dụng “tính tội phạm kép” theo nghĩa rộng (in abstracto), có nghĩa là chỉ đòi hỏi hành vi nguy hiểm cấu thành tội phạm ở nước kết án và cấu thành hành vi vi phạm pháp luật hành chính của nước tiếp nhận. Ta có thể thấy đây là sự vận dụng linh hoạt nhằm bảo đảm tối đa quyền con người của người chấp hành án phạt tù ở góc độ nhân đạo, bởi lẽ việc phạm nhân không thể thoát khỏi việc phải chấp hành bản án là điều rõ ràng và hiển nhiên. Việc chấp hành đó là bắt buộc hoặc ở nước mà họ đã bị kết án hoặc ở nước mà họ là công dân. Chính vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phạm nhân trong quá trình chấp hành án và xây dựng tiền đề tốt nhất cho họ tái hoà nhập cộng đồng sau khi được trả tự do chúng ta nên hiểu “tính tội phạm kép” theo một hướng rộng và tích cực hơn. Khi không quy định điều kiện hành vi của người đang chấp hành án phải cấu thành tội phạm ở nước tiếp nhận phải chăng rằng phạm nhân sẽ khiếu nại về tính hợp pháp của việc phải chấp hành hình phạt ở nơi mà hành vi của họ không cấu thành tội phạm. Vấn đề này được giải quyết khi chúng ta khẳng định, một trong những điều kiện để người đang chấp hành án được tiếp nhận hoặc chuyển giao là sự đồng ý của họ về việc tiếp tục chấp hành án ở nước tiếp nhận được quy định tại Điều 50 Luật tương trợ tư pháp 2007. Sự đồng ý này là cơ sở pháp lí để quốc gia tiếp nhận bác bỏ khiếu nại của họ. Do vậy pháp luật về vấn đề tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù cần nghiên cứu toàn diện và hiểu theo cách rộng hơn phù hợp với thực tiễn và công ước quốc tế trên thế giới qua đó tạo điều kiện cho người được chuyển giao cải tạo tốt hơn, sớm hòa nhập với cộng đồng, đồng thời thể hiện được sự nhân đạo đối với họ.
Vì vậy có thể kết luận được rằng vấn đề tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là một vấn đề thể hiện sự tiến bộ rõ nét, một bước phát triển tích cực của pháp luật của Việt Nam ở góc độ bảo đảm quyền con người. Thể hiện tính nhân văn giữa con người với con người, không dồn họ vào đường cùng mà tạo điều kiện tốt nhất cho họ hòa nhập với cộng đồng, đây là tính nhân đạo của tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù./.
Nguyễn Du My – VKSND huyện Bình Đại