“Đáo hạn ngân hàng” – một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực vay vốn ngân hàng – đến hạn người vay phải hoàn trả đúng như hợp đồng tín dụng đã ký. Cho vay đáo hạn ngân hàng với lãi suất cực kỳ ưu đãi, cho vay đáo hạn ngân hàng uy tín hay cho vay đáo hạn ngân hàng với lãi suất hấp dẫn,… là những cụm từ xuất hiện rất nhiều trên các trang thông tin điện tử mà những ai đến thời điểm “đáo hạn ngân hàng” đều có thể dễ dàng tìm kiếm được. Mặc dù vay với lãi suất cao nhưng người vay vẫn sẵn sàng để không bị lịch sử là khách hàng nợ xấu. Và một dịch vụ, một hình thức “hợp tác kinh doanh” cũng theo đó ra đời với tên gọi “dịch vụ cho vay đáo hạn ngân hàng”. Tuy nhiên, đã nói đến kinh doanh thì rủi ro là điều không tránh khỏi như thua lỗ, lừa gạt, thậm chí là mất hết tài sản. Nhưng nó cũng không đồng nghĩa với việc không thể lường trước được những rủi ro, có chăng là vì không nắm bắt được những yêu cầu cơ bản trong kinh doanh, do sự chủ quan, nhẹ dạ cả tin hay vì lợi nhuận quá lớn đã khiến cho con người ta không còn đủ sáng suốt để nhận thấy được những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến việc “mất cả chì lẫn chài”. Đã có không ít những trường hợp xảy ra trên thực tế.
Ông Nguyễn Văn K là một cán bộ tín dụng của một ngân hàng tại tỉnh Bến Tre, do tin tưởng nên khi K vay tiền của một số người quen biết sống tại địa phương với lý do “làm đáo hạn ngân hàng” với lãi suất hấp dẫn và họ đã không ngần ngại cho ông vay với số tiền từ vài trăm tiệu cho đến vài tỷ đồng. Một vài lần vay trước đó ông K hoàn trả lại số tiền đúng theo thời gian đã thỏa thuận nhưng khi số tiền vay lên đến hơn 6 tỷ đồng, không có khả năng hoàn trả nên ông K đã bỏ trốn.
Một trường hợp khác, ông C là nhân viên tín dụng của một Ngân hàng tại tỉnh Bến Tre, vì biết bà Trần Y có tài khoản tiết kiệm tại Ngân hàng mà C đang làm cũng như có sự quen biết từ trước nên C có ý định “góp vốn” cùng bà Y làm các hợp đồng tín dụng đáo hạn ngân hàng. Với “lợi nhuận” thu được từ việc “góp vốn” cao nên bà Y đồng ý. Mặc dù theo quy định của Ngân hàng nơi ông C làm việc nhân viên không được làm các hợp đồng tín dụng để đáo hạn ngân hàng. Nhưng bằng những hành vi gian lận trong quá trình làm việc, C nhiều lần làm các hợp đồng đáo hạn cho khách hàng rồi hoàn trả lại tiền gốc và lãi suất cho bà Y như đã thỏa thuận. Nhưng sau một thời gian thì C đã lặng lẽ ra đi mang theo số tiền của bà Y gần 02 tỷ đồng.
Hay trong một trường hợp khác, cũng với lý do “làm đáo hạn ngân hàng”, Lê và Kha đã vay của anh S, anh N và chị H với tổng số tiền hơn 10 tỷ đồng và hứa hẹn sẽ hoàn trả lại cho anh S, anh N và chị H khoản tiền vay đúng thời hạn cùng với mức lãi suất hấp dẫn (khoảng 50% số tiền gốc ban đầu, tùy thuộc vào số tiền cho vay càng nhiều thì tiền lãi càng cao). Mặc dù có hoàn trả lại cho anh S, anh N và chị H số tiền gốc cùng lãi suất như đã thỏa thuận nhưng Lê và Kha không dùng số tiền trên để cho vay đáo hạn ngân hàng như đã nói mà thực chất là dùng để luân chuyển qua lại giữa anh S, anh N và chị H cùng một số người mà Lê và Kha đã vay tiền khác. Vì lãi suất thỏa thuận quá cao dẫn đến việc không có khả năng hoàn trả nên cả hai bỏ trốn.
Vì quá tin tưởng vào người khác hoặc cũng có thể vì lợi nhuận quá lớn mà con người ta đã mất đi sự cảnh giác, tâm lý đề phòng hay sự sáng suốt để lường trước những rủi ro có thể xảy đến với mình. Chính vì nguyên nhân này đã tạo cơ hội cho những hành vi gian dối, lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra, tội phạm cũng vì thế mà gia tăng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Để hạn chế được vấn đề này, trước hết các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác tuyên truyền để mọi người nhận thấy được mức độ nguy hiểm của việc cho vay đáo hạn ngân hàng. Đồng thời có biện pháp xử lý thật nghiêm minh đối với các đối tượng thực hiện hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó người dân cũng cần nêu cao cảnh giác, đừng vì lợi ích trước mắt mà quên đi những rủi ro đang rình rập trong việc cho vay đáo hạn ngân hàng./.
Bùi Quốc Việt - Phòng 3 VKSND tỉnh Bến Tre