Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016, tại Khoản 1, 2 và 3 Điều 2 của Luật quy định người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; các hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, chậm đóng tiền bảo hiểm, chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp… là những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Khoản 1, 2 và 3 Điều 17 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Việc xử lý đối với các hành vi vi phạm nói trên, Luật Bảo hiểm xã hội có quy định cho Cơ quan Bảo hiểm xã hội có quyền xử lý vi phạm pháp luật hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế (Khoản 9 Điều 22 Luật Bảo hiểm xã hội).
Như vậy, kể từ ngày Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2016), Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện của Cơ quan Bảo hiểm xã hội đòi tiền bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động, những vụ án đã được thụ lý thì đình chỉ việc giải quyết, trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn Cơ quan Bảo hiểm xã hội thực hiện theo các quy định của Bộ luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Do đó, khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp về lao động, Viện kiểm sát cần lưu ý quy định về thẩm quyền xử lý theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, nhằm khắc phục các vi phạm của Tòa án./.
Phòng 10 – VKSND tỉnh Bến Tre