- Bảo lãnh thanh toán số 1608/TD-HH ngày 16/8/2011 với số tiền 21.560.571.994 đồng để bảo lãnh theo Hợp đồng mua bán số 2408/2011/PV2- VS/HĐMB ngày 24/8/2011. Bảo lãnh có hiệu lực từ ngày 17/8/2011 đến ngày 30/11/2011.
- Bảo lãnh thanh, toán số 2408/TD-HH ngày 24/8/2011 với số tiền 20.556.645.000 đồng để bảo lãnh theo Hợp đồng mua bán số 1208/2011/PV2- VS/HĐMB ngày 12/8/2011. Bảo lãnh có hiệu lực từ ngày 24/8/2011 đến ngày 06/12/2011.
Thực hiện 02 (hai) hợp đồng mua bán hàng hóa nêu trên, Công ty PV2 đã giao đủ cho Công ty VIETSAN theo đúng hợp đồng. Công ty VIETSAN đã nhận đủ hàng hóa nhưng đến hạn thanh toán mới thanh toán được 20.491.509.000 đồng (gốc là 18.884.630.597 đồng, lãi là 1.606.878.403 đồng). Do đó, ngày 08/5/2012 Công ty PV2 đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán cho Công ty PV2 số nợ gốc và lãi còn lại của 02 (hai) hợp đồng nêu trên.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2012/KDTM-ST ngày 25, 26/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện TL đã tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư PV2 với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Buộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phải thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư PV2 phát sinh từ bảo lãnh thanh toán số 1608/TD-HH ngày 16/8/2011 và Bảo lãnh thanh toán sổ 2408/TD-HH ngày 24/8/2011tổng sổ tiền ỉà 24.786.423.367 (nợ gốc 22.338.086.627 đồng, lãi 2.448.336.740 đồng).
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 24/2013/KDTM-PT ngày 26/4/2013 của Tòa án nhân dân thảnh phố H đã tuyên xử: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với việc giải quyết yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư PV2. Không chấp nhận kháng cáo, kháng cáo bổ sung của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triền nông thôn Việt Nam. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm sổ 08/2012/KDTM-ST ngày 25, 26/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện TL, thành phố HN.
Ngày 06/3/2014, ông Lê Minh Đức là người đại điện theo ủy quyền của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam có đơn đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm đốí với Bản án phúc thẩm nêu trên.
Ngày 22/12/2015, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành kháng nghị giám đốc thẩm số 02/2015/KN-KDTM đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 24/2013/KDTM-PT ngày 26/4/2013 của Tòa án nhân dân thành phố HN. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 21/4/2016, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã xét xử giám đốc thẩm, hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm nêu trên.
2. Những vi phạm cần rút kinh nghiệm:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hồng Hà do ông Đỗ Đức Hưng-Giám đốc Chi nhánh đã ký phát hành 02 (hai) chứng thư bảo lãnh thanh toán cho Công ty VIETSAN về thực hiện hợp đồng mua 2.204 tấn thép của Công ty PV2. Tuy nhiên, khi ký hợp đồng bảo lãnh, ông Hưng đã vi phạm bảo lãnh vượt thẩm quyền, đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố vụ án, khởi tố bị can (vào ngày 16/01/2012 và 16/5/2012), đã bắt tạm giam ông Hưng cùng một số đồng phạm (Đỗ Thị Minh Hiền, Trương Đăng Dần...). Cơ quan điều tra đã có Công văn số 243 ngày 27/7/2012, gửi Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về nội dung trên. Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, phía bị đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cũng có đơn đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án chờ kết quả điều tra của Cơ quan điều tra, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử chấp nhận 02 (hai) chứng thư bảo lãnh buộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho Công ty VTETSAN. Việc làm này của Tòa án hai cấp đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 4 Điều 22 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vi phạm này ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án, xác định trách nhiệm dân sự thuộc về ai, ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đương sự.
Phòng 10- VKSND tỉnh Bến Tre