Do bị bể hụi nên vợ chồng ông C, bà H phải có nghĩa vụ thi hành 53 Bản án sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre và Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre (các Bản án được xét xử từ vào thời điểm tháng 7/2011 đến tháng 7/2012, với số tiền 2.171.201.800 đồng, lãi suất chậm THA và nộp án phí số tiền 99.962.800đồng.
Quá trình giải quyết và xác minh điều kiện THA đã xác định, ông C và bà H hiện đang quản lý tài sản là nhà và quyền sử dụng đất (QSDĐ) thuộc thöûa số 195 và 196 tờ bản đồ số 09 có diện tích 7.489m2 tọa lạc tại A, thành phố BT. QSDĐ trên cấp cho hộ bà Lê Thị B vào năm 2004. Bà B (em ruột của cha ông C) chết vào năm 2011. Bà B không có chồng và con. Ông C, bà H và 02 con của ông C bà H là anh Q và anh S về sống chung với bà B vào năm 1993 (chung hộ khẩu với bà B)
Trước đó, vào năm 1998 hai thửa đất 195 và 196 tờ bản đồ sớ 09 cấp cho cá nhân bà Lê Thị B. Vào ngày 04 tháng 12 năm 2001 bà B làm di chúc cho ông C quản lý toàn bộ tài sản dùng vào việc thờ cúng, đến năm 2004, QSDĐ được điều chỉnh sang cho hộ bà Lê Thị B như đã nêu trên.
Hết thời gian tự nguyện thi hành án nhưng ông C và bà H không tự nguyện thi hành án. Chi cục thi hành án dân sự thành phố BT đã áp dụng Điều 74 Luật thi hành án dân sự năm 2008 để ra Quyết định cưỡng chế THA bằng hình thức kê biên một phần QSDĐ của ông C, bà H trong khối tài sản chung của hộ bà B để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
Xung quanh vụ việc này có nhiều ý kiến khác nhau như sau:
+ Ý kiến thứ nhất cho rằng: Đây là tài sản của cá nhân bà B đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ vào năm 1998. Năm 2001 bà B đã khẳng định tài sản trên là của riêng bà nên đã viết di chúc lại cho ông C được quản lý toàn bộ tài sản để sử dụng vào việc thờ cúng, nên không được quyền thế chấp hoặc chuyển nhượng. Đầu năm 2004 bà Lê Thị B được cấp lại sổ đỏ và sổ đỏ này “ cấp cho Hộ Lê Thị B”. Đây là mẫu chung về sổ đỏ nhưng thực tế vẫn là tài sản riêng của bà Lê Thị B. Năm 2011 bà B chết di chúc phát sinh hiệu lực, nghĩa vụ thi hành án là của ông C, bà H. Do đó căn cứ Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005, QSDĐ trên không được kê biên để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án cho ông C, bà H.
+ Ý kiến thứ hai cho rằng: Vào năm 2004 QSDĐ thửa 195 và 196 tờ bản đồ số 09 đã được điều chỉnh sang cho hộ bà B, thời điểm còn sống bà B không có yêu cầu điều chỉnh giấy chứng nhận QSDĐ. Nên QSDĐ trên thuộc về hộ gia đình bà B (trong đó có ông C, bà H). Bà B chỉ được quyền sử dụng một phần trong tổng diện tích 7.489m2. Năm2011 bà B chết, di chúc bà B lập vào năm 2001chỉ phát sinh hiệu lực đối với phần bà B sở hữu. Căn cứ theo quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013, Ông C, bà H có quyền sở hữu một phần trong khối tài sản chung này. Do QSDĐ trên là tài sản thuộc sở hữu chung nên việc Cơ quan THA áp dụng Điều 74 Luật thi hành án dân sự năm 2008 kê biên một phần QSDĐ của ông C, bà H trong khối tài sản chung của hộ bà B để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án là đúng quy định.
Để làm rõ thêm vấn đề nêu trên, rất mong được sự tham gia, trao đổi ý kiến của các đồng nghiệp.
Văn Nhanh
VKSND thành phố Bến Tre