Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Theo quy định tại Điều 60 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự

Để thống nhất việc thực hiện, ngày 22 tháng 9 năm 2010 liên Bộ Tài Chính – Bộ Tư Pháp đã ban hành thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự.

Tuy nhiên trên thực tế phát sinh, việc thu phí thi hành án vẫn còn vướng mắc và quan điểm trái chiều giữa Cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát. Điển hình:

Căn cứ quyết định công nhận sự thỏa thuận số 65/QĐST-DS ngày 15/11/2013 của Tòa án nhân dân TPBT về việc giải quyết tranh chấp Quyền sử dụng đất giữa bà T.T.T, ĐKTT: xã MTA, TPBT và ông T.V.B, sinh năm 1962, ĐKTT: xã MTA, TPBT. Theo đó, bà T và ông B thỏa thuận: bà T đồng ý cắt giao cho ông B phần đất có diện tích 114,4m2 (có họa đồ kèm theo).

Ngày 17/11/2013 ông B làm đơn yêu cầu thi hành án.

Ngày 05/12/2013 Chi cục thi hành án ra quyết định thi hành án số 359, với nội dung bà T đồng ý cắt giao cho ông B phần đất có diện tích 114,4m2 và tống đạt quyết định cho bà T vào ngày 05/12/2013, nhưng không ấn định thời gian tự nguyện thi hành án cho bà T.

Ngày 05/12/2013, qua làm việc bà T đồng ý thi hành theo nội dung quyết định số 65/QĐST-DS ngày 15/11/2013 của tòa án nhân dân TPBT, tự nguyện giao phần đất 114,4m2 theo án tuyên cho ông B để ông B làm giấy chúng nhận Quyền sử dụng đất (QSDĐ). Do các bên thỏa thuận tự nguyện thi hành án và phần đất trên hiện do ông B đang quản lý, sử dụng nên ông B không yêu cầu cơ quan THA tổ chức giao đất, chỉ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận QSDĐ nhưng ông B không có rút đơn yêu cầu THA để hai bên tự nguyện THA.

Ngày 25/12/2013 Chi cục thi hành án có văn bản yêu cầu Phòng tài nguyên và môi trường TPBT đề nghị UBND TPBT xem xét cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông B.

Ngày 18/01/2014 Chi cục thi hành án ra Quyết định thu phí thi hành án đối với ông B và thu phí thi hành án số tiền 2.745.600 đồng vào ngày 05/3/2014.

Hiện tại giải quyết vụ việc này có hai quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất:  Việc thi hành án giữa ông B và bà T hai bên đã thỏa thuận thi hành án, nhưng ông B không rút đơn yêu cầu thi hành án. Vì tài sản đang quản lý nên ông B không yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, chỉ yêu cầu được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Việc Chi cục thi hành án có công văn yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đề nghị UBND TPBT xem xét cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông B không thuộc trường hợp tổ chức thi hành bản án. Cơ quan thi hành án đã thu phí của ông B số tiền 2.745.600 đồng là không đúng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 thông tư liên tịch số 144 ngày 22/9/2010 của Bộ Tài Chính – Bộ Tư Pháp: “Nếu người được thi hành án không có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án để hai bên tự nguyện thi hành án, cơ quan thi hành án chưa có quyết định cưỡng chế thi hành án và cũng chưa thu được tiền, tài sản để chi trả cho đương sự thì không thu phí thi hành án

Quan điểm thứ hai cho rằng:  Do ông B có đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục thi hành án đã ra quyết định thi hành án, đã làm việc, động viên bà T để bà T tự nguyện thi hành án; có công văn yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đề nghị UBND TPBT xem xét cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông B. Chi cục thi hành án đã thực hiện việc tổ chức thi hành án, nên Chi cục thi hành án tiến hành thu phí thi hành án ông B là đúng quy định tại khoản 2, Điều 1 thông tư 144 ngày 22/9/2010 của Bộ Tài Chính – Bộ Tư Pháp: “Người được thi hành án khi nhận được tiền, tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án thì phải nộp phí thi hành án”.

Theo Anh – Chị thì quan điểm nào là đúng? Anh – Chị có hướng giải quyết tình huống này đúng pháp luật không?

 

                        Huỳnh Nhung

                        Phòng kiểm sát thi hành án dân sự

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới