Quá trình kiểm sát thi hành án dân sự, Viện KSND tỉnh Bến Tre phát hiện vụ việc cụ thể nhu sau:
Ngày 24/11/2015, TAND huyện T ban hành Bản án số 22/2015/DS-ST; với nội dung: “Chấp nhận yêu cầu độc lập của anh Th cùng các thành viên trong hộ gia đình anh Th như bà V, bà R buộc bà T cùng các thành viên trong hộ như bà L, bà G, bà Tr phải giao trả cho anh Th được quyền sử dụng phần đất có DT 11,2 m2 thuộc một phần thửa 37 (37A, 37B, 37C, 37D), tờ bản đồ số 31”. Không chấp nhận với nội dung của bán án sơ thẩm bà L, bà S và ông C (là người có quyền và nghĩa vụ liên quan) kháng cáo bản án trên. Ngày 29/02/2016, TAND tỉnh ban hành Bản án số 40/2016/DS-PT; với nội dung: “Không chấp nhận kháng cáo của bà L, bà S và ông C. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2015/DS-ST ngày 24/11/2015 của TAND huyện T”.
Ngày 19/4/2016, ông Th cùng các thành viên trong gia đình ông Th yêu cầu thi hành án. Ngày 22/4/2016 CCTHADS huyện T ban hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 712/QĐ-CCTHADS với nội dung: “Buộc bà T cùng các thành viên trong hộ như bà L, bà G, bà Tr ÂÂÂÂÂ phải tự tháo dỡ, di dời toàn bộ vật kiến trúc trên đất (có bảng kê tài sản kèm theo) để giao trả cho hộ gia đình ông Th được quyền sử dụng diện tích đất 11,2 m2 thuộc thửa số 37 (37A, 37B, 37C, 37D) TBĐ số 31, toạ lạc tại ấp 10, TT. huyện T”.
Quá trình tổ chức thi hành án, xét thấy một số nội dung bản án tuyên chưa rõ nên CCTHADS đã ban hành Công văn số 220/CCTHADS ngày 13/5/2016 yêu cầu TAND tỉnh giái thích các nội dung: “… các tài sản mà hộ bà T phải tháo dỡ, di dời để giao trả đất cho hộ ông Th nếu có bảng kê kèm theo là bảng kê nào?. Ngày 30/5/2016 TAND tỉnh ban hành Thông báo số 589/TB-TA sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm như sau: “các bên đương sự phải tự tháo dỡ, di dời toàn bộ vật kiến trúc trên đất (có bảng kê tài sản kèm theo) để giao trả quyền sử dụng đất. Bảng kê kèm theo là bản kê chi tiết danh mục tài sản định giá trong vụ kiện tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Th – ông D – bà T (Kèm theo biên bản định giá tài sản ngày 23/4/2014) của Phòng tài chính kế hoạch huyện T”.
Ngày 03/10/2016 Chi cục THADS huyện tiếp tục có công văn số 487/CCTHADS để yêu cầu TAND tỉnh giải thích Bản án phúc thẩm số 40/2016/DS-PT ngày 29/02/2016 với các nội dung: đề nghị Tòa án giải thích rõ vị trí, kích thước, chiều dài, chiều rộng của các thửa 37A, 37B, 37C, 37D là bao nhiêu? Các tài sản người phải thi hành án phải tháo dỡ, di dời gồm (Nhà trên): Sê nô bê tông cốt thép, mái tole Fibro xi măng, tầm vong + đòn tay (16 cây), ô văng bê tông cốt thép có chiều dài, cao, rộng bao nhiêu? Còn nhà dưới phải tháo dỡ, di dời bao nhiêu cây xà gồ (Đòn tay) và có chiều dài là bao nhiêu?. Ngày 26/10/2016 TAND tỉnh Bến Tre ban hành Công văn số 1065/CV-TA để sửa chữa, bổ sung, giải thích bản án phúc thẩm, Tòa án có cung cấp chiều dài, rộng cụ thể của các tài sản phải tháo dỡ, di dời. Bên cạnh đó, Tòa án còn xác định: “ Đối với vị trí, độ dài tứ cận cụ thể của các thửa 37A, 37B, 37C, 37D, Toà án yêu cầu CCTHADS căn cứ vào Hoạ đồ hiện trạng sử dụng đất thửa số 36, 37, 38 TBĐ số 31, thị trấn. T, huyện T ngày 16/4/2015 để thi hành án.
Quá trình tổ chức thi hành án phát sinh hai vấn đề cụ thể như sau:
- Một là, hiện thửa đất của người phải thi hành án hiện có 02 họa đồ (họa đồ năm 1998 và họa đồ Vlap). Trong khi đó, họa đồ Vlap khi đang đo đạc thì thửa đất của hộ ông Th đang có tranh chấp nên Hội đồng chỉnh lý và đăng ký biến động đất đai huyện chưa thừa nhận và xét duyệt. Khi viện kiểm sát nhân dân huyện T có kiến nghị yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự sớm tổ chức cưỡng chế thi hành án việc án nêu trên theo nội dung bản án đã tuyên thì phía Chi cục thi hành án dân sự huyện T cho rằng chưa thể sớm tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với việc án nêu trên với lý do thửa đất của người phải thi hành án hiện có 02 họa đồ (họa đồ năm 1998 và họa đồ Vlap) chưa xác định được họa đồ nào có giá trị pháp lý. Ngày 27/7/2016 UBND huyện T đã có tờ trình gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre để xin ý kiến áp dụng đối với trường hợp việc án nêu trên thì hai bản đồ đo đạc năm 1998 và đo đạc Vlap áp dụng bản đồ nào để thực hiện nhưng chưa nhận được bản trả lời.
- Hai là, quá trình kiểm sát việc tổ chức thi hành án, khi tiến hành khảo sát thực tế có phát sinh thêm tình tiết mới, đó là có những vật kiến trúc không có trong bảng kê kèm theo bản án đã tuyên.
Qua vụ việc cụ thể nêu trên, theo các đồng chí việc chi Cục THADS huyện chưa tổ chức thi hành án với lý do chưa xác định được họa đồ nào có giá trị pháp lý là có căn cứ không? Việc UBND huyện trực tiếp ban hành tờ trình xin ý kiến đối với hồ sơ đo đạc phục vụ công tác thi hành án dân sự có đúng với nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện theo quy định của Luật THADS không? Quá trình tổ chức thi hành án có phát sinh thêm vật kiến trúc không có trong bảng kê kèm theo bảng án đã tuyên thì có thể tổ chức thi hành bản án không? Mời các đồng chí cùng trao đổi./.
Huỳnh Nhung - Phòng kiểm sát thi hành án dân sự