Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

  Điều 60 Luật thi hành án dân sự (THADS) sửa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định

“Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự.

Chính phủ quy định mức phí thi hành án dân sự, thủ tục thu nộp, quản lý, sử dụng phí thi hành án dân sự.”

Để xác định từng mức phí thi hành án cụ thể, Điều 46 Nghị định 62/2015/NĐ-CP có quy định

“Điều 46. Mức phí, thủ tục thu nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án

1. Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án khi được nhận tiền, tài sản với mức phí sau đây:

a) Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên hai lần mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định đến 5.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 3% số tiền, giá trị tài sản thực nhận;

b) Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 5.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 150.000.000 đồng cộng với 2% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 5.000.000.000 đồng;

c) Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 7.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 190.000.000 đồng cộng với 1% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 7.000.000.000 đồng;

d) Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 10.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 220.000.000 đồng cộng với 0,5% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 10.000.000.000 đồng;

đ) Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 15.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 245.000.000 đồng cộng với 0,01% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 15.000.000.000 đồng.

2. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án và chứng kiến các đương sự thỏa thuận tự giao, nhận tiền, tài sản cho nhau thì phải chịu 1/3 mức phí thi hành án quy định tại Khoản 1 Điều này.

3. Trường hợp Tòa án không tuyên giá trị của tài sản hoặc có tuyên nhưng không còn phù hợp (thay đổi quá 20%) so với giá thị trường tại thời điểm thu phí thì cơ quan thu phí tổ chức định giá tài sản để xác định phí thi hành án phải nộp của người được thi hành án. Chi phí định giá do cơ quan thi hành án dân sự chi trả từ nguồn phí thi hành án được để lại.

…”

Thực tế trong quá trình kiểm sát thi hành án dân sự phát sinh một vụ việc cụ thể như sau:

Ngày 05/6/2015 Chi cục thi hành án dân sự X ra quyết định thi hành án số 1061/QĐ-CCTHA theo đơn yêu cầu thi hành án ngày 03/6/2015 của ông T- Chủ DNTN T với nội dung buộc Sở N phải trả cho ông T số tiền 7.936.060.500 đồng. Ngày 18/6/2015 Chi cục thi hành án dân sự X lập biên bản giải quyết việc thi hành án với Sở N được Sở cho biết: “Cơ quan chúng tôi là cơ quan hành chính sự nghiệp hoạt động từ ngân sách Nhà nước. Mỗi năm được cấp kinh phí hoạt động là 3,5 tỷ đồng. Vì vậy, không có tiền để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quyết định thi hành án trên. Sở chúng tôi sẽ báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre xin chủ trương thực hiện”. Đến ngày 23/6/2015 Chi cục thi hành án dân sự X có biên bản làm việc với ông T với nội dung: “Chi cục thi hành án thông báo cho ông T về việc Sở N phản hồi hiện chỉ còn nợ ông T là 7.890.606.000 đồng. Lí do: Sở N đã nộp tiền thuế thay cho DNTN T số tiền 45.454.000 đồng. Đồng thời Sở N là cơ quan hành chính sự nghiệp. Vì vậy hiện không có tiền trả nợ cho doanh nghiệp, Sở N sẽ báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre xin chủ trương thực hiện”. Ý kiến của ông T: thống nhất với ý kiến trên.

Từ ngày lập biên bản này, Chi cục thi hành án dân sự X không có biện pháp yêu cầu, cũng không cung cấp số tài khoản để khi có điều kiện thi hành án, Sở N chuyển trả cho ông T thông qua tài khoản của chi cục thi hành án dân sự thành phố. Cho đến ngày 12/11/2015, Sở N tự thỏa thuận chuyển trả cho ông T số tiền 534.393.000 đồng qua tài khoản của ông T. Biết được việc chuyển tiền này, Chi cục thi hành án dân sự thành phố ra quyết định số 50/QĐ-CCTHA ngày 14/12/2015 thu phí thi hành án với số tiền 16.031.800 đồng căn cứ số tiền 534.393.000 đồng ông T thực nhận.

Ngày 30/12/2015 Viện KSND Y ban hành kháng nghị số 676/KSTHADS-KN kháng nghị quyết định thu phí số 50/QĐ-CCTHA ngày 14/12/2015 của Chi cục thi hành án dân sự X yêu cầu hủy bỏ quyết định thu phí nói trên do không đủ căn cứ được quy định tại Điều 46 Nghị định 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ.

Ngày 18/01/2016 Viện KSND Y nhận được công văn số 31/TLKN-THADS ngày 13/01/2016 của Chi cục thi hành án dân sự X về việc trả lời kháng nghị với nội dung “không có cơ sở để thực hiện theo yêu cầu kháng nghị của Viện KSND Y”.

Qua nội dung vụ việc trên có hai quan điểm trái chiều như sau:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: kháng nghị cùa VKSND Y là hoàn toàn có cơ sở dựa trên Điều 46 Nghị định 62/2015/NĐ-CP với lý do: Vào ngày 18/6/2015 Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự X chỉ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án ở Sở N được cơ quan này trả lời là không có điều kiện thi hành án chờ ý kiến của UBND tỉnh. Ngày 23/6/2015 Chấp hành viên lập biên bản giải quyết việc thi hành án với ông T, nội dung thông báo điều kiện thi hành án của Sở N. Trong thời gian này Chấp hành viên không mời hai bên đương sự để tiến hành giải quyết việc thi hành án, thỏa thuận…cũng không yêu cầu người phải thi hành án khi có điều kiện thi hành án, tức là khi được UBND tỉnh Bến Tre có chủ trương đồng ý phân bổ ngân sách để thi hành các khoản tiền cho ông T thì chuyển tiền qua tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố để chi trả cho ông T.

Sau khi xác định ông T đã được Sở N tự chuyển khoản trả 534.393.000 đồng tiền thi hành án vào ngày 12/11/2015, đến ngày 02/12/2015 Chấp hành viên mới cung cấp cho Sở N số tài khoản của Chi cục và yêu cầu Sở chuyển trả số tiền thi hành án còn lại qua tài khoản của Chi cục thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng: qua nội dung tổ chức thi hành án, Chi cục thi hành án nhận thấy: Khi nộp đơn yêu cầu thi hành án DNTN T đã được giải thích rõ và đồng ý thực hiện nghĩa vụ nộp phí theo quy định. Quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên đã nhiều lần đôn đốc, tác động đến việc thi hành án để Sở N áp dụng biện pháp tài chính quy định, nhằm thực hiện nghĩa vụ thi hành án như đưa ra các giải pháp hoàn trả tiền tạm ứng ngân sách và báo cáo UBND tỉnh xin chủ trương thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

Do quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án là phù hợp quy định pháp luật, đến thời điểm DNTN T nhận được tiền các bên đương sự không có thỏa thuận gì khác, số tiền Sở N trả DNTN T là thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quyết định thi hành án, do đó người được thi hành án phải nộp phí đối với số tiền đương sự thực nhận theo quyết định thi hành án là phù hợp quy định của pháp luật.

Theo các đồng chí, quan điểm nào là đúng? Mời các đồng chí cùng tham gia thảo luận đóng góp ý kiến.

Phòng kiểm sát thi hành án dân sự - VKSND tỉnh Bến Tre

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới