Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Ngày 15/10/2015, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao có văn bản số 4118/VKSTC-V10 nội dung trả lời Công văn số 655-VKS/P10 ngày 09/9/2015 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng về việc xin ý kiến những khó khăn, vướng mắc trong xác định đối tượng khởi kiện, thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án hành chính giữa:

Người khởi kiện: ông Sơn Hoành Đươl, sinh năm 1969. Địa chỉ: ấp Rạch Sên, xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

Người bị kiện: Chủ tịch UBND Tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ: Số 01, Châu Văn Tiếp, phường 2, Thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Tại Công văn nói trên của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nhất trí với quan điểm cho rằng nhận định Toà án Tỉnh Sóc Trăng có thẩm quyền thụ lý giải quyết tranh chấp nêu trên căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao quy định về Quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 28 lủa Luật TTHC: “ Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều này”.

- Căn cứ Điều 42 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “ Hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 37 của luật này mà khiếu nại không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đống ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”.

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định:         “Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”.

- Căn cứ khoản 4 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì: “Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành”.

Như vậy, theo nội dung công văn thỉnh thị thể hiện việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Sơn Hoành Đươl với các hộ dân đã được Chủ tịch UBND huyện Mỹ Xuyên giải quyết nhưng ông Đươl không đồng ý nên đã khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng. Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 930/QĐ- UBND ngày 29/7/2014 có nội dung giữ nguyên Quyết định số 343/QĐ-UBND ngày 6/02/2014 của Chủ tịch UBND huyện Mỹ Xuyên. Như vậy, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng giải quyết khiếu nại của ông Đươl là đúng quy định tại Điều 203 Luật Đất đai 2013 và Điều 21 Luật khiếu nại. Sau khi nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 nhưng ông Đươl vẫn không đồng ý, do đó có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân Tỉnh Sóc Trăng để được giải quyết theo quy định của pháp luật. Do đó, Quyết định số 930/QĐ-UBND ngày 29/7/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Toà án thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng hành chính là đúng theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, tại Thông báo rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 602/TB-VKSTC-VPT1 ngày 11/9/2014 của Viện KSND Tối cao có nêu thông báo rút kinh nghiệm vụ án hành chính giữa ông Nguyễn Danh Sắc và Chủ tịch UBND tỉnh H. đã bị TAND Tối cao huỷ án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án do có vi phạm nghiêm trọng Khoản 1 Điều 28 Luật TTHC. Nội dung vụ án như sau:

Ngày 14/4/2006, UBND Thị xã H ( tỉnh H.) ban hành quyết định số 304/QĐ-UBND ( gọi tắt là Quyết định 304) về việc thu hồi 902, 43 m2 đất, trong đó có diện tích đất của gia đình ông Nguyễn Danh Sắc. Do không chấp hành Quyết định 304, UBND thị xã H tiếp tục ban hành quyết định xử phạt hành chính số 1341/QĐ-XPHC ngày 18/10/2006 ( gọi tắt là Quyết định 1341) và Quyết định cưỡng chế số 1485/ QĐ-UBND ngày 02/11/2006 đối với gia đình ông Sắc. Không đồng ý cả 03 quyết định trên nên bà Dương Thị Bích ( vợ ông Sắc) đã làm đơn khiếu nại. Ngày 25/01/2007, UBND thị xã H đã ra Quyết định số 61/QĐ-UBND ( gọi tắt là Quyết định 61) không chấp nhận đơn khiếu nại của bà Bích. Sau khi nhận Quyết định 61, ông Sắc làm đơn khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh H.

Ngày 31/5/2014, Chủ tịch UBND tỉnh H đã ra Quyết định số 1273/ QĐ- UBND ( gọi tắt là Quyết định 1273) với nội dung:

- Không chấp nhận các nội dung khiếu nại của ông Sắc, giữ nguyên các Quyết định số 304, 1341, 1485( Điều 1);

- Giao cho UBND thị xã H lập các thủ tục tiến hành bồi thường diện tích 130m2 đất hợp pháp của gia đình ông Sắc và hướng dẫn các bên tranh chấp khởi kiện ra Toà án….

Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại trên … ông Sắc đã làm đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ Điều 2 Quyết định 1237.

Khi xem xét Quyết định 1237, Viện kiểm sát và Toà án cấp phúc thẩm… nhận thấy Quyết định 1237 vẫn giữ nguyên các quyết định số 304, 1341, 1485 và Quyết định số 61 của UBND thị xã H. Điều 2 của quyết định có nội dung chỉ đạo UBND thị xã H thực hiện đầy đủ chức năng của mình trong việc quản lý đất đai….Đây không phải là nội dung bổ sung các quyết định trước đó như Toà sơ thẩm đã đánh giá.

Tại điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 02/ 2011/NQ- HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao quy định: “ Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều này”.

Căn cứ hướng dẫn trên thì Quyết định số 1273 không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính vì Quyết định này là quyết định giải quyết khiếu nại và không có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chínhban đầu. Việc Toà án nhân dân tỉnh H. thụ lý giải quyết vụ án này là không đúng thẩm quyền.

Như vậy, hai văn bản trao đổi nghiệp vụ về cùng một vấn đề do Viện phúc thẩm 1 ban hành nhưng lại có những cách hiểu và vận dụng khác nhau sẽ gây khó khăn cho viện kiểm sát địa phương khi thực hiện chức năng kiểm sát của mình. Đơn vị xin nêu, rất mong được các đồng chí trao đổi để cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ./.

 Thanh Nhã - VKSND huyện Mỏ Cày Bắc

 

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới