Theo qui định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (BLTTDS) thì “Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần”. Và qui định này cũng được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-YANDTC ngày 01/8/2012. Tuy nhiên, đối với trường hợp VKS tham gia phiên toà do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ có một số vướng mắc như sau:
Thứ nhất, khi khởi kiện thì trong đơn khởi kiện nguyên đơn đã ghi đầy đủ địa chỉ của bị đơn cũng như người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và kèm theo đơn khởi kiện nguyên đơn nộp cho Toà án Giấy xác nhận địa chỉ cư trú của những người này (có xác nhận của Công an). Trong quá trình giải quyết vụ án thì Toà án không tống đạt được các văn bản tố tụng cho họ nên Toà án tiến hành xác minh lại địa chỉ của các đương sự này (thường là địa chỉ của bị đơn) bằng nhiều hình thức như: ra văn bản yêu cầu Công an xác định địa chỉ cư trú của đương sự, trực tiếp xác minh tại Công an ….;
Thứ hai, Toà án ra quyết định đối chất giữa các đương sự nhưng sau đó không tiến hành đối chất được do có đương sự không có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
Những trường hợp nêu trên có phải là trường hợp Toà án có tiến hành thu thập chứng cứ và Viện kiểm sát có phải tham gia phiên toà sơ thẩm không.
Theo qui định tại Điều 81 BLTTDS: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
Đối chiếu với qui định này, theo tôi thì những trường hợp nêu trên không phải là trường hợp Toà án tiến hành thu thập chứng cứ, do đó không thuộc trường hợpViện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm. Bởi lẽ:
Đối với trường hợp thứ nhất, thì Toà án có tiến hành các hoạt động xác minh địa chỉ của đương sự như ra văn bản yêu cầu Công an xác định địa chỉ cư trú của đương sự, trực tiếp xác minh tại Công an. Nhưng mục đích của công việc này không nhằm làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không theo qui định của Điều 81 BLTTDS nêu trên nên đây không được xem là chứng cứ và hoạt động này không phải là hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án. Theo tôi đây chỉ là trường hợp Toà án xác định lại điều kiện khởi kiện của nguyên đơn.
Đối với trường hợp thứ hai, mặc dù Toà án xác định cần thiết phải đối chất giữa các đương sự và ra quyết định đối chất đúng theo qui định, nhưng không tiến hành đối chất được. Như vậy, có nghĩa là việc thu thập chứng cứ bằng hình thức đối chất không thực hiện được, đồng nghĩa với việc không có nội dung để làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không. Do đó, rõ ràng đây cũng không phải là trường hợp Toà án thu thập chứng cứ và cũng không thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà.
Trên đây là một số khó khăn, vướng mắc trong việc xác định trường hợp tham gia phiên toà sơ thẩm giải quyết các vụ án dân sự do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ và quan điểm của người viết. Rất mong được sự tham gia ý kiến của các đồng nghiệp, cũng như có sự hướng dẫn thống nhất của ngành./.
Phan Trọng Thế - VKSND thành phố Bến Tre