Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Ngày 09/11/2015, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành thông báo rút kinh nghiệm qua kiểm sát xét xử vụ án “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty liên quan đến hoạt động của công ty”, giải quyết yêu cầu của đương sự về thực hiện Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2013 của Công ty Cổ phần SKT – HLS. Vụ án này có nhiều vi phạm trong quá trình giải quyết nên cần nghiên cứu để rút kinh nghiệm chung.

I. Nội dung vụ án

Theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Thanh H – cổ đông Công ty Cổ phần SKT – HLS: Ngày 11/6/2013, Công ty Cổ phần SKT – HLS ra thông báo về việc tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2013, nhưng sau đó lại ra thông báo tạm hoãn và không tổ chức Đại hội đồng cổ đông theo thời gian luật định.

Ngày 01/7/2013, nhóm cổ đông sở hữu trên 10% cổ phần của Công ty Cổ phần SKT – HLS do ông H đại diện có đơn yêu cầu Hội đồng quản trị triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường. Ngày 01/8/2013, có đơn yêu cầu Ban Kiểm soát Công ty triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường nhưng vẫn không được chấp nhận.

Ngày 03/9/2013, nhóm cổ đông do ông H đại diện đã ra quyết định về việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường vào ngày 29/9/2013, đồng thời có văn bản gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Y đề nghị tiến hành giám sát trình tự, thủ tục và tham dự. Do số cổ đông tham dự không đảm bảo tỷ lệ theo quy định nên Đại hội đồng cổ đông bất thường (lần 1) chưa đủ điều kiện tiến hành.

Ngày 07/10/2013, nhóm cổ đông tiếp tục thông báo triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường (lần 2) vào ngày 16/10/2013. Đại hội đồng cổ đông bất thường (lần 2) đã được tổ chức và quyết định thông qua các nội dung: Báo cáo hành vi vi phạm pháp luật của ông Nguyễn Hữu T – Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Công ty; sửa đổi Điều lệ Công ty; bầu bổ sung ông Nguyễn Thanh H vào Hội đồng quản trị; thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông…

Ngày 08/11/2013, ông H triệu tập họp Hội đồng quản trị, đã họp và quyết định: Thành lập Tổ công tác làm việc với ông T về việc bàn giao kết quả Đại hội; bãi nhiệm, miễn nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Công ty của ông T; bầu ông H làm Giám đốc – đại diện theo pháp luật của Công ty; bầu ông Vũ Ngọc S giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty.

Căn cứ kết quả Đại hội đồng cổ đông bất thường và kết quả họp Hội đồng quản trị, ông H đã có văn bản thông báo gửi ông T, yêu cầu bàn giao con dấu, tài liệu của Công ty cho Giám đốc mới, nhưng ông T không thực hiện. Do vậy, ông H đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T phải thực hiện bàn giao con dấu và các tài liệu của Công ty Cổ phần SKT – HLS.

II. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và vi phạm của cấp sơ thẩm

1. Về thụ lý đơn khởi kiện

Ngày 07/01/2014, Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn khởi kiện. Trong đơn khởi kiện, ông Nguyễn Thanh H lấy tư cách là Giám đốc Công ty Cổ phần SKT – HLS, đại diện Công ty khởi kiện nhưng đơn không đóng dấu của Công ty. Tòa án ra thông báo số 01/2013/TB-TA ngày 08/01/2014 yêu cầu nguyên đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhưng không nêu rõ vấn đề cần sửa đổi, bổ sung. Khi nguyên đơn chưa sửa đổi, bổ sung thì ngày 13/01/2014 Tòa án ra quyết định thụ lý vụ án “Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty liên quan đến hoạt động của công ty” và thông báo cho các bên đương sự.

Ngày 28/02/2014, Công ty Cổ phần SKT – HLS do ông Nguyễn Hữu T – Giám đốc có văn bản gửi Tòa, nêu ý kiến: “Việc Tòa án xác định nguyên đơn và người đại diện theo pháp luật trong vụ án không phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự. Ông Nguyễn Thanh H chỉ có quyền khởi kiện với tư cách là đại diện nhóm cổ đông. Đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn”.

Ngày 10/4/2014, Tòa án nhận đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 07/4/2014 của ông H. Trong đơn này, ông H lấy tư cách là cổ đông Công ty khởi kiện Công ty Cổ phần SKT – HLS (do ông T – đại diện theo pháp luật), bổ sung cho đơn khởi kiện ngày 03/01/2014 với nội dung: Đề nghị Tòa án buộc ông T phải thực hiện Nghị quyết số 01/2013/NQ-ĐHĐCĐBT ngày 16/10/2013 của Đại hội đồng cổ đông công ty và Quyết định số 01/QĐ-HĐQT ngày 09/11/2013 của Hội đồng quản trị Công ty, buộc ông T tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật cho ông H tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Y.

Cùng ngày 10/4/2014, Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý bổ sung đơn khởi kiện này của ông H và thông báo cho các bên đương sự. Theo đó, Tòa án đã xác định lại quan hệ pháp luật đang tranh chấp từ “Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty liên quan đến hoạt động của công ty” thành “Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty liên quan đến hoạt động của công ty”; tư cách tham gia tố tụng của các đương sự cũng được xác định lại như sau: Nguyên đơn là ông Nguyễn Thanh H – cổ đông Công ty; bị đơn là Công ty Cổ phần SKT – HLS do ông Nguyễn Hữu T – Giám đốc đại diện theo pháp luật.

Nhận thấy: Tư cách nguyên đơn thể hiện trong đơn khởi kiện ban đầu và đơn sửa đổi, bổ sung sau này hoàn toàn khác nhau, có sự đảo chiều: Theo đơn ngày 03/01/2014, Công ty Cổ phần SKT – HLS (là pháp nhân do ông H đại diện) khởi kiện đối với cá nhân ông T, còn đơn ngày 07/4/2014 là cá nhân ông H – cổ đông Công ty khởi kiện đối với pháp nhân là Công ty Cổ phần SKT – HLS do ông T đại diện.

Khi tiếp nhận đơn khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm tuy có thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung nhưng không hướng dẫn rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, sau đó lại thụ lý ngay vụ án. Sau này, nguyên đơn có đơn sửa đổi, bổ sung khi đã hết thời hạn cho phép được sửa đổi, bổ sung (nguyên đơn nhận được thông báo của Tòa án về sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện từ ngày 09/01/2014 nhưng đến ngày 10/4/2014, sau hơn 03 tháng mới có đơn sửa đổi, bổ sung) và có sự mâu thuẫn về tư cách của người khởi kiện. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận thụ lý đơn sửa đổi, bổ sung trong trường hợp này là vi phạm quy định tại Điều 164, 169 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2. Về thụ lý yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Ngày 20/01/2014 (sau hơn 03 tháng kể từ ngày tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2013 của Công ty Cổ phần SKT – HLS), sau khi đã thụ lý vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được đơn đề nghị ngày 09/01/2014 của Tổng Công ty CNTT (gọi tắt là SBIC) là cổ đông, đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại Công ty Cổ phần SKT – HLS. Trong đơn này, SBIC yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2013 của Công ty Cổ phần SKT – HLS. Đây là yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Mặc dù các bên đương sự trình bày chưa thống nhất về ngày SBIC nhận được Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông nêu trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu các bên cung cấp tài liệu có giá trị pháp lý để xác định ngày SBIC nhận được Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông. Như vậy, mới có sơ sở xác định yêu cầu độc lập về hủy bỏ Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông này của SBIC có còn trong thời hiệu khởi kiện hay không. Việc Tòa án không kiểm tra, xác định thời hiệu khởi kiện, đã thụ lý giải quyết yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là vội vàng, thiếu căn cứ, thực hiện chưa đúng theo quy định tại Điều 159, Điều 178 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 107 Luật Doanh nghiệp.

3. Về xác định những người tham gia tố tụng

Vụ án tranh chấp về Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông là vụ việc phức tạp, liên quan trực tiếp đến trách nhiệm của Hội đồng quản trị, của Ban Kiểm soát Công ty, đòi hỏi phải có ý kiến của Ban Kiểm soát, của thành viên Hội đồng quản trị của Công ty, của cơ quan quản lý nhà nước (Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh) với nhiều vấn đề cần làm rõ về hoạt động của Công ty. Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, Tòa án không triệu tập thành viên Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát Công ty, đại diện Sở Kế hoạch và Đầu tư tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là thiếu sót, vi phạm Khoản 4, Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự.

4. Về thu thập tài liệu chứng cứ trong vụ án

Toàn bộ tài liệu liên quan đến Đại hội đồng cổ đông bất thường của Công ty Cổ phần SKT – HLS do các bên đương sự xuất trình được đưa vào hồ sơ vụ án đều là những bản photocopy không qua chứng thực. Trong số này, nội dung của nhiều tài liệu cũng cho thấy sự thiếu hợp lý, như: Danh sách cổ đông triệu tập dự Đại hội (Cổ đông bên ngoài của Công ty, chốt ngày 03/9/2013) có ghi tên người lập danh sách là ông Nguyễn Danh Đ nhưng chữ ký lại là của ông Nguyễn Thanh H phôtô ngược; một số giấy ủy quyền của cổ đông chưa có đủ chữ ký và xác nhận cần thiết, như chưa có chứng thực của Trại giam nơi cổ đông ủy quyền đang thi hành án; không có chữ ký của người đại diện theo pháp luật trong giấy ủy quyền của cổ đông chưa đủ 15 tuổi… Ngoài ra, một số tài liệu quan trọng, trong đó có Sổ cổ đông của Công ty không được Tòa án cấp sơ thẩm thu thập để có cơ sở đối chiếu, chứng minh…

Việc thu thập chưa đầy đủ và xác định những tài liệu không có giá trị pháp lý nêu trên là chứng cứ để giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 83, Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự.

5 Vi phạm về việc quyết định đưa vụ án ra xét xử

Theo bị đơn (Công ty Cổ phần SKT – HLS) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập – Tổng Công ty CNTT (SBIC): Ngày 18/6/2013, SBIC đã có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Y giải quyết việc xác định lại tỷ lệ sở hữu vốn Nhà nước do SBIC làm đại diện chủ sở hữu trong Công ty Cổ phần SKT – HLS. Đồng thời, SBIC đã có đơn đề nghị các cơ quan chức năng tỉnh Y làm rõ những sai phạm trong quá trình tăng, giảm vốn Điều lệ tại Công ty Cổ phần SKT – HLS.

Một số văn bản của Ban Kiểm soát Công ty Cổ phần SKT – HLS có trong hồ sơ vụ án: Văn bản số 23/BC-BKS ngày 09/12/2013 gửi Công an và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Y có nội dung đề nghị kiểm tra xem xét việc góp vốn, tăng, giảm vốn Điều lệ dẫn đến việc giảm tỷ lệ vốn góp của Nhà nước tại Công ty Cổ phần SKT – HLS; văn bản số 15/2013-BKS ngày 18/9/2013 trả lời đơn yêu cầu của ông Nguyễn Thanh H về lý do hoãn họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2013 cũng đã đề cập đến nội dung cần đợi kết quả giải quyết việc tăng, giảm vốn này…

Như vậy có căn cứ cho thấy: trước thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm tiếp nhận, thụ lý giải quyết đơn khởi kiện của ông Nguyễn Thanh H liên quan đến Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2013 của Công ty Cổ phần SKT – HLS thì vụ án tranh chấp về tỷ lệ sở hữu vốn trong Công ty này (trong đó vốn Nhà nước đang từ 54% qua tăng vốn Điều lệ của Công ty đã giảm xuống chỉ còn 13,9%) đang được các cơ quan chức năng của tỉnh Y thụ lý giải quyết.

Khi giải quyết vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh vụ án tranh chấp về tỷ lệ sở hữu vốn trong Công ty Cổ phần SKT – HLS đã được các cơ quan chức năng của tỉnh giải quyết đến đâu, vì việc xác định tỷ lệ vốn góp liên quan trực tiếp đến quyền được triệu tập và quyền biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2013 của Nhóm cổ đông. Trong trường hợp chưa có kết quả giải quyết của vụ án tranh chấp cổ phần này thì vụ án tranh chấp về Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông năm 2013 (do ông Nguyễn Thanh H là nguyên đơn) phải được tạm đình chỉ.

Việc Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh, thu thập tài liệu về kết quả giải quyết vụ án tranh chấp về tỷ lệ sở hữu vốn trong Công ty, đã quyết định đưa vụ án tranh chấp về Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của Công ty này ra xét xử và tuyên án là trái với quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Khoản 4, Điều 22 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

6. Về nội dung bản án sơ thẩm

Bản án sơ thẩm số 02/2014/KDTM-ST ngày 05/8/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Y đã tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh H; buộc Công ty Cổ phần SKT – HLS do ông Nguyễn Hữu T đại diện phải thực hiện Nghị quyết số 01/2013/NQ-ĐHĐCĐBT ngày 16/10/2013 của Đại hội đồng cổ đông Công ty và Quyết định số 01/QĐ-HĐQT ngày 09/11/2013 của Hội đồng quản trị Công ty, tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của Công ty tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Y và bàn giao con dấu, các tài liệu của Công ty Cổ phần SKT – HLS cho ông Nguyễn Thanh H – Giám đốc mới của Công ty…

Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng đã được tuyên trong Bản án sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập – Tổng Công ty CNTT do ông Nguyễn Ngọc S làm đại diện theo pháp luật”.

Tuy nhiên, cũng về nội dung giải quyết yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên, trong Biên bản nghị án ngày 05/8/2014 lại thể hiện Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thống nhất quyết định: Đình chỉ yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập – Tổng Công ty CNTT do ông Nguyễn Ngọc S làm đại diện theo pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập trên nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn – Kết quả biếu quyết: Nhất trí 03/03.

Việc quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên công khai tại phiên tòa có nội dung không phù hợp với quyết định của Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thông qua khi nghị án, được thể hiện trong biên bản nghị án cho thấy Hội đồng xét xử sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng cả về thủ tục lẫn nội dung giải quyết vụ án.

Những vi phạm nghiêm trọng nêu trên, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đề nghị và được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật./.

  Phòng 10 – VKSND tỉnh Bến Tre

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới