Bị hại A trình báo bị 02 đối tượng lạ mặt đi trên xe môtô giật đứt sợi dây chuyền vàng nhưng không lấy được mà còn vướng trên cổ của bị hại. Bị hại không nhớ mặt đối tượng cũng như đặc điểm xe môtô. Cơ quan điều tra nghi ngờ B thực hiện vụ cướp giật nên tiến hành làm việc và B khai nhận chính B đã cùng C thực hiện hành vi giật sợi dây chuyền của A vào thời gian và địa điểm như A đã trình báo. Cơ quan điều tra làm việc với C và C cũng thừa nhận đã lái xe môtô chở B thực hiện vụ cướp giật sợi dây chuyền này. Nếu không bắt giữ B và C thì chắc chắn B và C sẽ bỏ trốn. Như vậy trong trường hợp này, Cơ quan điều tra có thể ra lệnh bắt khẩn cấp đối với B và C theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 81 BLTTHS hay không? Hiện nay tại đơn vị có luồng 02 quan điểm:
Quan điểm 1: Không thể bắt khẩn cấp B và C. Bởi vì, bị hại không nhớ mặt B và C, còn “người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm” phải là người không liên quan đến vụ án (tức người làm chứng) thì mới bảo đảm được sự khách quan. Còn B và C là người phạm tội và đã khai ra nhau cùng thực hiện tội phạm. Do đó cả hai người đều có liên quan đến vụ án và có thể thay đổi lời khai bất cứ lúc nào nên độ tin cậy không cao. Cho nên không thể dùng lời khai của người này để làm căn cứ bắt người kia được.
Quan điểm 2: Được quyền bắt khẩn cấp B và C. Vì B đã khẳng định chính C là người đã cùng B thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại; lời khai của B và C cũng đáng tin cậy vì phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của A. Đây được coi là trường hợp “người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn”. Quan điểm này được lý giải: Việc B khai ra C phạm tội hay C khai ra B phạm tội đều không nhằm mục đích để né tránh hành vi phạm tội của mình và càng không phải để giá họa cho người khác, mà rõ ràng là đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và đồng bọn. Cho nên, kiểm chứng lời khai của B và C với lời khai của A về diễn biến vụ việc phạm tội thì đủ độ tin cậy để xác định B và C là đối tượng đã gây ra cướp giật. Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp Cơ quan điều tra đã tích cực đấu tranh khai thác đối tượng tình nghi và kết quả đạt được đến mức độ nêu trên, nhưng do yếu tố thời gian nên không kịp tiến hành các hoạt động điều tra khác để củng cố vững chắc chứng cứ cho việc khởi tố và bắt tạm giam bị can. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp để ngăn chặn người phạm tội bỏ trốn và đủ thời gian để củng cố chứng cứ. Cho nên, “người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm” không nhất thiết phải là người làm chứng, mà có thể là người đã cùng thực hiện hành vi phạm tội. Miễn sao lời khai của họ có căn cứ xác thực phù hợp với chứng cứ khác, để có thể tin tưởng rằng việc bắt người bảo đảm không oan sai.
Rất mong sự góp ý chân tình của đồng nghiệp, nhất là của các Phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre./.
VKSND huyện Ba Tri