Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung (Luật THADS) có hiệu lực từ ngày 01/7/2015, ngày 18/7/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2015 và thay thế Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009; nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009; nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP. Nghị định này có một số quy định mới so với các quy định trước đây như sau:
1. Trình tự, thủ tục nhận lại đơn yêu cầu thi hành án trong trường hợp đã trả đơn yêu cầu thi hành án trước ngày 01/7/2015.
Luật THADS năm 2008 đã bãi bỏ Điều 52 trả đơn yêu cầu thi hành án. Để đảm bảo quyền của người được thi hành án, khoản 5 Điều 4 Nghị định quy định đối với trường hợp đã trả đơn yêu cầu thi hành án trước ngày 01/7/2015 mà đương sự yêu cầu thi hành án trở lại thì cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định trả đơn phải ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án.
2. Về thỏa thuận thi hành án (Điều 5)
Điều 6 Luật THADS đã ghi nhận đương sự có quyền thỏa thuận trong thi hành án. Sau khi có bản án, quyết định của Tòa án, các đương sự có thể thỏa thuận việc thi hành án với nhau mà không cần thiết phải nộp đơn đến cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, nếu trường hợp các bên không thực hiện đúng nội dung thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục tổ chức thi hành án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình hay không?
Việc các bên đương sự thỏa thuận với nhau trong quá trình tổ chức thi hành án được khuyến khích nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật và không gây thiệt hại cho người thứ ba. Để thỏa thuận đó thực sự có hiệu quả trong việc thi hành án thì khi thỏa thuận các bên phải thấy rõ được hậu quả pháp lý nếu thực hiện không đúng nội dung thỏa thuận thì các bên có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục tổ chức thi hành án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Do đó, Điều 5 Nghị định đã bổ sung, làm rõ quy định về việc thỏa thuận theo nguyên tắc:
- Việc thỏa thuận phải được lập thành văn bản ghi rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký của các bên tham gia thỏa thuận.
- Trường hợp không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu thi hành án đối với các nghĩa vụ của bản án, quyết định chưa được thi hành.
3. Về xác minh điều kiện thi hành án (Điều 9)
Luật THADS bỏ quy định trách nhiệm của người được thi hành án phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án mà Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của nguời phải thi hành án. Để việc xác minh đạt hiệu quả và đảm bảo tính khách quan, Nghị định đã bổ sung quy định người phải thi hành án có trách nhiệm kê khai tài sản, kể cả số tiền mà người phải thi hành án hiện có theo yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình. Đây là quy định mới nhằm rằng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với hoạt động thi hành án và có khả năng giảm bớt việc tẩu tán tài sản trong thi hành án.
Luật THADS cũng bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu thi hành án mà trong trường hợp khi kết quả xác minh người phải thi hành án không có tài sản điều kiện để đảm bảo việc thi hành án Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Để đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án theo quyết định của Tòa án, tránh tình trạng việc Chấp hành viên chưa làm hết trách nhiệm của mình khi tiến hành xác minh, trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án nhưng người được thi hành án cung cấp thông tin điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải tiến hành xác minh lại nội dung mà đương sự đã cung cấp để có căn cứ tổ chức thi hành án.
Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng khi cơ quan thi hành án ủy thác việc thi hành án đến địa phương khác nhưng cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác thực hiện việc xác minh thì người phải thi hành án không cư trú hoặc không có tài sản ở địa phương mình dẫn đến tình trạng hồ sơ bị đùn đẩy từ cơ quan thi hành án này sang cơ quan thi hành án khác,Khoản 2 Điều 9Nghị địnhđãbổ sung quy định về “ủy quyền xác minh”. Mục đích của ủy quyền xác minh là làm rõ thông tin về tài sản,nơi cư trú … của người phải thi hành án hoặc các thông tin liên quan đến việc thi hành án, trên cơ sở đó làm căn cứ để cơ quan thi hành án thực hiện việc ủy thác thi hành án hoặc tổ chức thi hành án được chính xác hơn.
4. Vềcông khai thông tin của người phải thi hành án(Điều 11)
Sau khi ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án để đảm bảo người phải thi hành án không trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hoặc tẩu tán tài sản thì cơ quan thi hành án sẽ thực hiện việc đăng tải thông tin về tên, địa chỉ, nghĩa vụ phải thi hành của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành trên trang thông tin điện tử về thi hành án dân sự và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Do đó, Nghị định quy định sau khi ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án,cơ quan thi hành án thực hiện việc đăng tải thông tin về tên, địa chỉ, nghĩa vụ phải thi hành của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành trên trang thông tin điện tử về thi hành án dân sự và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Việc đăng tải thông tin của người phải thi hành án trên trang thông tin điệntửthực hiện theo nguyên tắc:
- Chỉ được đăng tải thông tin của người phải thi hành án sau khi đã có quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án;
- Khi xác định được thông tin về sự thay đổi tên, địa chỉ, nghĩa vụ và điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải bổ sung, sửa đổi thông tin và công khai nội dung thay đổi.
- Khi người thi hành án đã thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án hoặc việc thi hành án đã được đình chỉ thì phải chấm dứt việc đăng tải thông tin của người phải thi hành án./.
Phòng kiểm sát thi hành án dân sự - VKSND tỉnh Bến Tre