Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự tại địa phương cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác, khi bị xử lý họ không còn tài sản và cũng không có tài sản gì để bồi thường cho người bị hại. Trong khi đó, họ chứng minh được người mua tài sản, nhưng người mua này cho rằng đã bán mất tài sản cho người không biết địa chỉ, nên không thể thu hồi trả lại tài sản cho bị hại. Hiện nay, trong trường hợp này, các cơ quan pháp luật tại địa phương giải quyết chỉ buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại; còn người mua tài sản không bị ràng buộc trách nhiệm gì; và vì người phạm tội không có tài sản nên ruốt cuộc người bị hại cũng không thể nhanh chóng nhận lại được tiền bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: B trộm của A một cây mai kiểng trị giá 10 triệu đồng. B đem bán cây mai cho C được 2 triệu đồng. C khai không biết tài sản do B trộm cắp mà có và đã bán lại cho một người không rõ địa chỉ được 9 triệu đồng.

Trong trường hợp này hầu hết Tòa án chỉ buộc B phải bồi thường thiệt hại cho A 10 triệu đồng, còn C không bị ràng buộc trách nhiệm gì nên vẫn thụ hưởng số tiền chênh lệch 7 triệu đồng. Trong khi đó B đã tiêu xài hết tiền và không còn tài sản để bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại, còn C thì hoàn toàn có khả năng về tài sản.

Lẽ ra trong trường hợp này, A sẽ có 02 quyền yêu cầu để lựa chọn:

Một là, A yêu cầu B phải bồi thường giá trị cây mai đã chiếm đoạt là 10 triệu đồng, theo quy định tại Điều 260, 604, 608 BLDS;

Hai là, A yêu cầu C phải hoàn trả giá trị cây mai đã mua là 10 triệu đồng, theo quy định tại Điều 600, 602 BLDS.

Hiện nay, hầu như Tòa án chỉ áp dụng quy định tại Điều 604, 608 BLDS để buộc B phải bồi thường thiệt hại cho A. Đây cũng là lựa chọn tối ưu để giải quyết trách nhiệm dân sự. Nhưng để bảo đảm khả năng bồi thường của B thì Tòa án chưa áp dụng quy định tại Điều 128 BLDS xác định giao dịch giữa B và C là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật (B không có quyền định đoạt cây mai của A), để buộc C phải hoàn trả cho B 10 triệu đồng (trị giá cây mai). Từ đó, nếu như B không có tiền bồi thường cho A thì vẫn bảo đảm khả năng bằng nguồn tiền đòi lại từ C.

Trong trường hợp A xét thấy điều kiện của C hoàn toàn có đủ khả năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả giá trị cây mai, thì A có quyền lựa chọn yêu cầu áp dụng Điều 602 BLDS để buộc C phải trực tiếp hoàn trả cho A 10 triệu đồng (giá trị cây mai).

Thực tế hiện nay, người bị hại không biết và cũng không được hướng dẫn để lựa chọn một cách tối ưu quyền yêu cầu của mình để kịp thời đòi lại giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Trong suy nghĩ của người bị hại có lẽ họ mặc nhiên xác định ai gây ra thiệt hại thì phải bồi thường mà không biết rằng quy định của pháp luật cho phép họ có quyền lựa chọn như trên. Còn những người phạm loại tội này thường có trình độ học vấn thấp và áp lực tâm lý bị trừng trị do làm điều sai trái nên hầu hết họ chấp nhận với những quyết định của cơ quan pháp luật mà không yêu cầu người đã mua tài sản phải hoàn trả lại. Đối với người mua, thực tế hầu như đều tự nguyện giao trả lại giá trị tài sản, nhưng do không đề cập đến nên họ không tự động thực hiện nghĩa vụ hoàn trả.

Cũng cần phải nói thêm, trong trường hợp lựa chọn nào của người bị hại, thì pháp luật đều quy định người mua phải hoàn trả lại tài sản hoặc giá trị tài sản. Tức là, nếu không buộc phải hoàn trả trực tiếp cho người bị hại theo quy định tại Điều 602 BLDS thì họ cũng phải hoàn trả lại tài sản theo Điều 128 BLDS cho người đã bán; và họ cũng được pháp luật bảo vệ trong trường hợp ngay tình, tức họ có quyền yêu cầu người bán hoàn trả lại số tiền đã dùng để mua tài sản và bồi thường thiệt hại nếu có. Còn việc xác định giá trị tài sản để buộc người mua hoàn trả thì tùy trường hợp giải quyết cho hợp lý. Ví dụ như, nếu ngay sau khi chiếm đoạt người phạm tội bán liền tài sản thì giá trị tài sản hoàn trả sẽ được xác định theo kết quả đã định giá; còn nếu người phạm tội sử dụng một thời gian rồi mới bán thì phải xác định giá trị còn lại của tài sản (khấu trừ giá trị hao mòn) cho phù hợp để buộc hoàn trả; phần chênh lệch sẽ do người phạm tội bồi thường.

Trách nhiệm dân sự có được giải quyết như trên thì người bị hại mới có cơ mai cao đòi lại được tài sản hoặc giá trị tài sản bị chiếm đoạt một cách kịp thời; đồng thời cũng ràng buộc trách nhiệm đối với người mua tài sản. Hiện nay, nhiều trường hợp người mua không bị ràng buộc trách nhiệm, mà lại còn được thụ hưởng số tiền chênh lệch khá cao từ việc bán tài sản do người khác phạm tội; nên họ thường hay ém nhẹm tài sản hoặc không tích cực truy tìm người đã mua lại tài sản để thu hồi trả cho người bị hại. Do vậy, việc áp dụng pháp luật dân sự để giải quyết trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự đầy đủ, thì một mặt bảo vệ được kịp thời quyền lợi của người bị chiếm đoạt tài sản, mặt khác tạo được sức ép để người đang thụ hưởng tài sản phải giao nộp lại tài sản hoặc khai ra người đang chiếm giữ tài sản mà thu hồi trả lại cho người bị hại; và tránh được sự nhỡn nhơ thụ hưởng lợi ích tài sản bất hợp pháp. Nhưng để đạt được điều này, thì các cơ quan pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cần phải giải thích quy định của pháp luật để đương sự biết mà thực hiện lựa chọn quyền yêu cầu của mình.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới