Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

            Thời gian qua việc ban hành kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm của Viện kiểm sát hai cấp đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự nói riêng cũng như công tác kiểm sát nói chung. Thông qua kiểm sát trực tiếp và kiểm sát thường xuyên, Viện kiểm sát hai cấp đã kịp thời phát hiện các vi phạm trong công tác thi hành án dân sự và đã ban hành nhiều kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm. Phần lớn các kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát ban hành đều được cơ quan, tổ chức chấp nhận, thực hiện, góp phần làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.  Mặc dù một số kiến nghị của Viện kiểm sát được các cơ quan, tổ chức có văn bản trả lời tiếp thu, chấp nhận toàn bộ nhưng việc khắc phục còn chưa triệt để, vi phạm còn tiếp tục tái diễn, vẫn còn một số kiến nghị, kháng nghị chỉ được chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận. Điển hình:

+ Ngày 28/3/2013 Viện KSND huyện M ban hành kiến nghị số 01/KN-VKS yêu cầu Chi cục THADS huyện M khắc phục vi phạm trong việc gửi 30 quyết định về THADS trễ hạn nhưng Chi cục THADS huyện M chỉ chấp nhận một phần (chấp nhận 25 quyết định gửi trễ hạn). Lý do: Chi cục THADS huyện M khi ban hành quyết định có vào sổ giao nhận nhưng không tiến hành chuyển giao ngay (đến khi hết hạn mới chuyển giao). Khi cán bộ kiểm sát nhận các quyết định nói trên chỉ ký nhận vào sổ giao nhận của Chi cục THADS huyện M nhưng không xem lại ngày giao quyết định nên dẫn đến trường hợp ngày nhận không trùng ngày giao. Do đó khi Viện kiểm sát huyện M ban hành kiến nghị không kiểm tra, đối chiếu với sổ giao nhận của Chi cục THADS huyện M nên kiến nghị chỉ được chấp nhận một phần và Viện kiểm sát huyện M đã ban hành văn bản rút lại một phần kiến nghị (chỉ kiến nghị 25 quyết định gửi trễ hạn).

+ Quyết định THA số 1042/QĐ-CCTHA ngày 13/6/2012 của Chi cục THADS thành phố T có nội dung: Buộc bà Lê Thị B phải trả cho ông Châu Văn P số tiền 38.952.000đ và lãi suất chậm thi hành án. Ngày 26/6/2013 bà B nộp số tiền 3.600.000đ, nhưng do ông P không nhận nên ngày 26/8/2013 Chi cục THADS thành phố T đã làm thủ tục gửi tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam-Chi nhánh tỉnh T.

Ngày 04/11/2013 Chi cục THADS thành phố T nhận được Quyết định giám đốc thẩm số 38/2013/KDTM-GĐT ngày 27/9/2013 của TAND Tối cao có nội dung “Huỷ toàn bộ bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 02/2012/KDTM-PT ngày 28/5/2012 của TAND tỉnh T và Bản án số 01/2012/KDTM-ST ngày 06/3/2012 của TAND thành Phố T, giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố T giải quyết lại sơ thẩm”. Chi cục THADS Thành phố T đã ban hành Quyết định đình chỉ thi hành án số 02/QĐ-CCTHA ngày 07/11/2013 có nội dung “Buộc bà Lê Thị B phải trả cho ông Châu Văn P số tiền 35.352.000đ và lãi suất chậm thi hành án”.

Ngày 22/11/2013 VKSND thành phố T ban hành Quyết định kháng nghị số 707/KSTHA, kháng nghị Quyết định đình chỉ số 02 ngày 07/11/2013 của Chi cục THADS thành phố T, vì cho rằng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà Lê Thị B và yêu cầu Chi cục THADS thành phố T thu hồi quyết định đình chỉ thi hành án. Chi cục THADS thành phố T không nhất trí với kháng nghị nên VKSND Thành phố T đã có văn bản kèm theo hồ sơ việc thi hành án báo cáo đến Lãnh đạo Viện KSND tỉnh T.

Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, đối chiếu với Luật THADS, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Viện KSND tỉnh T nhận thấy: VKSND thành phố T ban hành kháng nghị số 707/KSTHA ngày 22/11/2013 yêu cầu Chi cục THADS thành phố T thu hồi Quyết định đình chỉ thi hành án số 02/QĐ-CCTHA ngày 07/11/2013 đối với bà B phải trả cho ông P số tiền 35.352.000 đ và lãi suất chậm thi hành án là chưa đảm bảo căn cứ pháp luật bởi các lý do:

* Thứ nhất: quyết định đình chỉ thi hành án là đúng theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 50 Luật THADS năm 2008. Lý do: Bản án số 02/2012/KDTM-PT ngày 28/5/2012 của TAND tỉnh T và Bản án số 01/2012/KDTM-ST ngày 06/3/2012 của TAND thành Phố T đã bị huỷ.

* Thứ hai: Quyết định giám đốc thẩm Toà tuyên huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm do vi phạm thủ tục tố tụng về thu thập chứng cứ nhưng không tuyên phần tiền bà B đã nộp cho Cơ quan THADS thành phố T. Do đó không có căn cứ để chi trả lại số tiền đã thu cho bà B. Việc thu số tiền 3.600.000đ của bà B là đúng quy định, do người được thi hành án (ông P) không nhận. Cơ quan THADS thành phố T đã lập thủ tục gửi tiết kiệm theo quy định tại Điều 10 Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp để đảm bảo cho việc xử lý theo bản án mới có hiệu lực pháp luật quy định tại Điều 136 Luật THADS năm 2008 và khoản 5, Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 là đúng quy định của pháp luật.

            Bởi các lẽ trên, VKSND tỉnh T xét thấy VKSND thành phố T ra quyết định kháng nghị số 707/KSTHA ngày 22/11/2013 đối với Chi cục THADS thành phố T là không cần thiết chỉ cần trao đổi, nhắc nhở ngành bạn. Nên ngày 30/12/2013 Viện KSND thành phố T đã ban hành quyết định rút toàn bộ kháng nghị số 707 nêu trên.

            Từ thực trạng trên để nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự trong công tác kháng nghị, kiến nghị Viện kiểm sát hai cấp cần thực hiện đồng bộ một  số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, Kiểm sát chặt chẽ việc chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định về thi hành án dân sự đảm bảo đúng nội dung và thời gian quy định.

Hai là, Các kháng nghị, kiến nghị hoặc kết luận TTKS phải đảm bảo tính có căn cứ. Khi phát hiện vi phạm KSV cần sao lưu văn bản sai phạm, trường hợp cần thiết có thể lập biên bản về việc phát hiện sai phạm có ký xác nhận của cán bộ, Chấp hành viên thi hành án, tránh trường hợp sau khi kết luận, kiến nghị cơ quan THADS không chấp nhận mà VKS không có căn cứ để chỉ ra sai phạm đó. Đồng thời có sổ theo dõi vi phạm đối với các vi phạm phổ biến nhưng kéo dài, lặp đi lặp lại nhiều lần chậm được khắc phục để tập hợp ban hành văn bản kiến nghị chung.

Ba là, Nội dung kiến nghị, kháng nghị phải nêu rõ ràng, cụ thể, tránh trường hợp nêu chung chung. Khi ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị cần phải chỉ rõ vi phạm quy định của điều luật, nguyên nhân và yêu cầu khắc phục cụ thể.

 Bốn là, Viện kiểm sát phải quan tâm, theo dõi việc trả lời kháng nghị, kiến nghị và định kỳ kiểm tra kết quả thực hiện các kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm. Trường hợp cơ quan, tổ chức không thực hiện (hoặc thực hiện không nghiêm túc)…thì Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xem xét, giải quyết theo quy định./.

                                              Phòng 10-Viện KSND Bến Tre

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới