Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Từ việc tin tưởng lẫn nhau dựa trên sự quen biết hay các mối quan hệ thâm tình, những thỏa thuận cho vay (trong đó có vay tiền) đã không được lập thành văn bản mà chỉ thỏa thuận qua lời nói của các bên. Vì vậy trong một vài trường hợp khi người vay không hoàn trả hoặc hoàn trả không đúng thời hạn đã thỏa thuận thì người cho vay cũng không có đủ chứng cứ để chứng minh việc thiết lập một hợp đồng cho vay trước đó nên họ gặp không ít khó khăn trong việc thu hồi lại tài sản “thuộc quyền sở hữu của mình”. Liệu pháp luật có đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích của họ (bên cho vay) hay không? Việc ý thức pháp luật vẫn còn yếu kém cũng như chưa thật sự tin tưởng vào pháp luật có thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình mà một số người đã hành xử “theo những cách riêng” của họ, một trong những cách đó được thể hiện trong trường hợp sau đây:

Do có quen biết từ trước nên Nguyễn Thị M đã nhiều lần cho vợ chồng Trần Văn H vay tiền (vay không lãi suất), với tổng số tiền là 1,3 tỷ đồng để đánh bạc. Vì không có khả năng hoàn trả lại số tiền cho Nguyễn Thị M nên vợ chồng Trần Văn H cùng hai con nhỏ bỏ trốn khỏi nơi cư trú tại Bình Dương về thuê trọ tại một xã thuộc tỉnh Bến Tre. Liên lạc với H nhiều lần không được, M thuê người theo dõi và biết được chỗ ở của H hiện tại. Ngày 18/8/2017, M cùng với một số người khác đã tìm đến nhà trọ, nơi gia đình H đang ở với mục đích đòi lại số tiền cho vay. Khi đến nơi, không thấy H ở nhà mà chỉ có T (vợ H) cùng với hai con nhỏ nên Nguyễn Thị M đã đưa ba mẹ con T đến nhà chị Nguyễn Thị N tại quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh. Tại đây, M kêu người đến canh giữ nhằm mục đích buộc H phải trả lại số tiền vay trước đó. Sau khi biết vợ con mình đang bị M bắt giữ, H đã chủ động liên lạc cho M để thỏa thuận việc trả nợ. Theo như yêu cầu của M thì H phải trả trước 500.000.000 đồng thì M sẽ thả ba mẹ con chị T về. Do không có tiền trả theo thỏa thuận với M nên Trần Văn H đã đến Công an xã để trình báo, khai rõ đầu đuôi sự việc. Nhờ sự phối hợp của các lực lượng Công an nên ba mẹ con chị T đã được giải thoát an toàn.

Bằng những hành vi nêu trên, Nguyễn Thị M đã bị khởi tố theo quy định của pháp luật Hình sự. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất trong việc xác định tội danh của M.

Quan điểm thứ nhất cho rằng giữa M và H đã tồn tại một hợp đồng vay tài sản (thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự), tuy nhiên H đã bội tín không hoàn trả lại số tiền vay mà bỏ trốn. M giữ vợ con H nhằm đòi lại số tiền 1,3 tỷ đồng (thỏa thuận trả trước 500.000.000 đồng, số tiền còn lại sẽ trả dần) và trong suốt quá trình giữ người thì M không có bất kỳ một hành động gây thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại đến sức khỏe, tinh thần của vợ con H. Đồng thời tại thời điểm bắt giữ vợ con H thì M cũng không biết rõ là H có số tiền này hay không (vì thực tế nhiều vụ bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì đối tượng biết rõ về gia thế của người bị hại mới thực hiện hành vi bắt cóc người thân của họ để tống tiền) và M cũng chưa nhận được tiền thì bị bắt. Do đó nên xem xét hành vi của M phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật” (Điều 123 BLHS năm 1999)

Trong khi đó quan điểm thứ hai cho rằng khi đã bắt giữ vợ con H làm con tin thì M yêu cầu H phải trả số tiền đã vay. Theo quy định tại Điều 223 BLDS năm 2015 thì “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác thì có quyền sở hữu tài sản đó”. Có thể thấy giữa M và H đã thiết lập một hợp đồng cho vay với số tiền là 1,3 tỷ đồng và H là chủ sở hữu hợp pháp đối với số tiền đã vay. Việc mong muốn chuyển dịch số tiền đang thuộc quyền sở hữu của người khác thành của mình một cách trái pháp luật thì được coi là “chiếm đoạt”. Hơn nữa, “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” là hành vi bắt cóc người khác làm con tin và uy hiếp tinh thần người quản lý tài sản nhằm làm cho họ sợ mà phải giao tài sản”. Mặc dù trong quá trình bắt giữ ba mẹ con chị T, M không có một hành động cụ thể nào thể hiện việc uy hiếp tinh thần H. Nhưng trong trường hợp này, H trong hoàn cảnh là “con nợ” đang chạy trốn thì bị phát hiện, vợ cùng hai con nhỏ đang bị “chủ nợ” bắt giữ thì tâm lý hoang mang, lo sợ là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy mà hành vi của M đã có tác động không nhỏ đến tinh thần của H, đây cũng được xem là uy hiếp tinh thần. Do đó hành vi của M phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” (Điều 134 BLHS năm 1999).

Để nhận thức một cách đúng đắn hơn những quy định, đảm bảo công bằng trong thực thi pháp luật cũng như trong việc xác định tội danh của bị can, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý độc giả. Theo quy định của pháp luật thì hành vi nêu trên của Nguyễn Thị M phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật” hay “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”? Và việc đòi lại số tiền đã cho vay có bị xem là chiếm đoạt tài sản hay không?

Phòng 3 – VKSND tỉnh Bến Tre