Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự năm 2015 có một số điểm mới về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh so với qui định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu một số điểm mới về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đồng thời, nêu một số vướng mắc khi áp dụng áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trên thực tế:
- Bộ luật hình sự năm 1999 qui định áp dụng bắt buộc chữa bệnh tại điều 43 và điều 44. Nội dung chủ yếu qui định về điều kiện, thẩm quyền và thời gian bắt buộc chữa bệnh. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Viện kiểm sát ra quyết định bắt buộc chữa bệnh; trong giai đoạn xét xử, chấp hành án phạt tù thì Tòa án ra quyết định bắt buộc chữa bệnh. Việc chấm dứt thời gian áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh do cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù được qui định riêng tại điều 44. Việc qui định như nêu trên không gây khó khăn cho việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và khấu trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù khi xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Bộ luật hình sự năm 2015 qui định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại điều 49, gồm 03 khoản:
1. Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của Bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.
2. Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt, thì người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Như vậy, theo cấu trúc của điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015 nêu trên thì có thể hiểu việc quyết định áp dụng bắt buộc chữa bệnh được chia ra 03 trường hợp: Trường hợp 01: theo khoản 1 là người thực hiện hành vi nguy hiểm trong khi mắc bệnh qui định tại điều 21 (mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình); Trường hợp 02: theo khoản 2 là người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; Trường hợp 03: theo khoản 3 là người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Về thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì Bộ luật hình sự cũng qui định thuộc Viện Kiểm Sát và Tòa Án. Trường hợp theo khoản 01 thuộc thẩm quyền Viện kiểm sát hoặc Tòa án; Trường hợp theo khoản 2 và khoản 03 thẩm quyền của Tòa án. Có thể hiểu: đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong giai đoạn điều tra và truy tố thì thẩm quyền áp dụng Biện pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc Viện kiểm sát. Trong giai đoạn VKS đã truy tố, chờ xét xử thẩm quyền áp dụng Biện pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc Tòa Án.
Trường hợp người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì thẩm quyền thuộc Tòa án. Nội dung này có quan điểm cho rằng: với kết luận giám định người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng sau khi gây án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì Viện kiểm sát không có quyền áp dụng Biện pháp bắt buộc chữa bệnh kể cả trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Về thẩm quyền áp dụng Biện pháp Bắt buộc chữa bệnh theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 qui định tại khoản 2 điều 447: Căn cứ kết luận giám định pháp y tâm thần, Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
Với qui định này, thẩm quyền của cơ quan tố tụng theo các giai đoạn tố tụng, không phân ra 03 nhóm đối tượng như Bộ luật hình sự 2015: người thực hiện hành vi nguy hiểm trong khi mắc bệnh qui định tại điều 21 (mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình); người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Đây là điểm chưa đồng nhất qui định về thẩm quyền áp dụng Biện pháp Bắt buộc chữa bệnh giữa Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Vẫn biết rằng cơ quan tiến hành tố tụng khi ra một quyết định tố tụng phải căn cứ Bộ luật tố tụng hình sự. Nhưng giữa các lời văn của các Bộ luật có liên quan đến nhau không thể có những ý mâu thuẫn, hoặc không thống nhất với nhau sẽ gây lúng túng cho cơ quan tố tụng khi áp dụng pháp luật.
- Một điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 qui định về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh cũng có nhiều quan điểm trái chiều. Đoạn 2, khoản 3, điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015 qui định về thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Trước đây, theo qui định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì được qui định riêng ở điều 44, do đó đương nhiên được hiểu thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù trong mọi trường hợp. Nay Bộ luật hình sự năm 2015 lại qui định tại khoản 3 điều 49 nên chỉ có ý nghĩa áp dụng cho trường hợp qui định riêng tại khoản 3, điều 49 là trường hợp người đang chấp hành án phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình khi bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành án phạt tù.
Có quan điểm cho rằng dù lời văn điều luật như vậy nhưng vẫn áp dụng khấu trừ thời gian chấp hành hình phạt tù cho trường hợp người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình mà sau này có thể bị xử phạt tù. Quan điểm này không thay đổi theo bộ luật hình sự năm 1999, nhưng không đúng với cấu trúc và lời văn của điều luật.
Để có sự thống nhất trong áp dụng pháp luật thiết nghĩ các cơ quan tư pháp Trung ương cần thống nhất cách hiểu và hướng dẫn cho các cơ quan tố tụng cấp dưới áp dụng đối với từng trường hợp nêu trên để tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất.
Trên đây là một số bất cập về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo những qui định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vừa có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, rất mong nhận được trao đổi của các bạn quan tâm./.
Lại Đức Trung – VKSND thành phố Bến Tre