Chào mừng bạn đã đến với website www.vksbentre.gov.vn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Chúc bạn có ngày làm việc vui vẻ và thành công !

Trong pháp luật hình sự Việt Nam, tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” đã được quy định tại Điều 250 BLHS 1999. Do tình hình tội phạm diễn ra phức tạp nên trong thời gian qua, một số quy định của tội này đã được vận dụng và có cách hiểu khác nhau nên cần có hướng dẫn thống nhất. Ngày 30/11/2011, liên ngành Trung ương Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền đã có một số hướng dẫn nhằm áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, hướng dẫn của Thông tư số 09 cũng chưa giải quyết triệt để một số vướng mắc trong thực tiễn. Chính vì vậy, việc hiểu một cách thống nhất quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản và làm rõ các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn cần được quy định rõ, vụ án sau đây điển hình cho thấy khó khăn, bất cập trong xử lý đối với loại tội phạm này:

Vào khoảng 4 giờ sáng ngày 09/10/2015, H và V bàn bạc cùng đi tìm tài sản lấy trộm. Khi đi bộ ngang qua nhà anh L cả hai leo rào đột nhập vào nhà lấy được 01 màn hình máy vi tính, 01 ti vi 32 inch, 01 két sắt. Cả hai đem tài sản vừa trộm được chuyển ra trước cổng rào nhà anh L. H liền điện thoại cho T nhờ đến chở đồ dùm. T nghe vậy không hỏi gì liền điều khiển xe mô tô đến gặp H. Khi T đến nhìn thấy màn hình vi tính và tivi để trong bao gần gốc dừa,  H và V liền khiêng két sắt để lên sau xe mô tô (lúc này T đã biết tài sản do trộm cắp mà có), V ngồi sau ôm để Th chở về nhà H, còn H lấy màn hình vi tính, ti vi đi về sau. Khi về đến phòng H đưa 100.000 đồng cho T đi mua cưa sắt hết 45.000 đồng về cưa két sắt. Cả ba cùng thay phiên nhau cưa két sắt, kiểm tra bên trong có 3.000 đồng, 02 giấy đăng ký xe, 01 giấy nợ. Sau đó, V mượn xe T đi bán màn hình vi tính được 400.000 đồng (khi cho mượn xe T không hỏi cũng không thấy V lấy màn hình vi tính đi bán). Đến chiều cùng ngày, H gọi điện mượn xe T nhưng không nói gì T cũng không hỏi. T liền điều khiển xe chạy qua nhà đưa xe cho H, thấy V điều khiển xe còn H ngồi sau ôm tivi chạy đi (T biết tivi này do trộm cắp mà có). Khoảng 2 tiếng sau H và V về đến nhà, H đưa cho T 400.000 đồng nói uống cà phê và đổ xăng, T lấy tiền cũng không nói gì chỉ nghĩ là tiền bán tivi mà có. Tại Bản kết luận định giá trị tài sản đã kết luận tài sản bị chiếm đoạt 01 ti vi 32 inch giá trị 4.500.000 đồng, 01 màn hình máy vi tính 19 inch giá trị 1.200.000 đồng, 01 két sắt giá trị 3.800.000 đồng. Tổng tài sản giá trị 9.500.000 đồng.

Có hai ý kiến khác nhau về hướng xử lý đối với hành vi của T:

Ý kiến thứ nhất: T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” do khi qua đến nơi gặp H và V, T đã biết tài sản đó do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý chở két sắt về nhà H. Sau khi chở về nhà H, T đi mua cưa cùng H và V cưa két sắt nhưng không có tài sản gì giá trị. Khi H gọi mượn xe mặc dù không nói đi đâu nhưng khi đưa xe T đã thấy V điều khiển xe chở Hưng ngồi sau ôm tivi. Mặc dù T khai chỉ nghĩ là đi bán có tiền nhưng có đủ căn cứ để buộc T phải biết đó là tiền do bán tivi mà có. Vì lúc T qua chở két sắt đã biết số tài sản này do phạm tội mà có, khi V chở H đi bán tivi mặc dù không nói đi đâu nhưng T thấy H ngồi sau ôm tivi. Khoảng thời gian từ khi H và V đi khoảng 2 tiếng về đưa tiền cho T nói đổ xăng, uống cà phê, thì T phải biết tiền H đưa do đi bán tivi mà có. Diễn biễn hành vi của T là liên tục có đủ căn cứ chứng minh T phải biết số tiền H đưa là tài sản do phạm tội mà có.

Ý kiến thứ hai: Hành vi của T khi qua chở két sắt biết đó là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn chở két sắt về nhà H. Sau khi chở về nhà H, T đi mua cưa cùng H và V cưa két sắt nhưng không có tài sản gì giá trị. Hành vi này của T lại không thuộc các trường hợp theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09 ngày 30/11/2011 liệt kê các hành vi về tội Chứa chấp hoặc Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:

“1. Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó.

2. Tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó.”

Đến lúc V hỏi mượn xe đi bán màn hình vi tính T không biết đi đâu và cũng không hỏi. Khi H mượn xe đi bán ti vi cùng V, không nói T biết mượn xe làm gì, T cũng không hỏi đi đâu. Mặc dù lúc H ôm ti vi ngồi sau cho V chở T nhìn thấy nhưng không biết đi đâu, khi về H cho tiền T mới nghĩ là đi bán ti vi mà có. Vì vậy, không đủ căn cứ chứng minh hành vi của T cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 250 BLHS.

Qua hai ý kiến trên có thể thấy rõ còn nhiều bất cập trong việc xử lý đối với loại tội phạm này. Khi đánh giá lỗi có "biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không” phải căn cứ vào thời điểm mà người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ nhận biết. Theo đó, thời điểm đánh giá là thời điểm khi người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ thực hiện hành vi chứ không phải thời điểm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Điều luật quy định "người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có...” đã thể hiện lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, để làm rõ thuật ngữ "biết rõ” là không phải dễ dàng. Do người phạm tội không bao giờ thừa nhận tội của mình ngay khi bị phát hiện chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nên họ thường khai không biết đó là tài sản do người khác phạm tội mà có, sau khi bị các cơ quan chức năng phát hiện mới biết. Theo Từ điển tiếng Việt, biết là "có ý niệm về người, vật hoặc điều gì đó, để có thể nhận ra được hoặc có thể khẳng định được sự tồn tại của người, vật hoặc điều ấy” hay "nhận rõ được thực chất hoặc giá trị để có được sự đối xử thích đáng”. Từ đó có thể hiểu, người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản "biết rõ là do người khác phạm tội mà có” là việc một người khi thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ đã có sự đánh giá của riêng bản thân về tài sản mà mình chứa chấp, tiêu thụ và nhận biết được đó là tài sản do phạm tội mà có, nhưng vì lý do nào đó vẫn thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ.

Hiện nay, thực tiễn xét xử đều dựa theo sự thừa nhận của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ về việc họ có biết hay không biết tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ do người khác phạm tội mà có để quyết định có phạm tội hay không. Việc đánh giá như vậy là chưa thỏa đáng, không đảm bảo tính nghiêm minh trong việc xử lý đối với loại tội phạm này. Vì nếu như chỉ dựa vào sự thừa nhận của người phạm tội chẳng khác nào ai khai báo thành khẩn sẽ bị khởi tố, còn những người có hiểu biết pháp luật sẽ lợi dụng việc này để thoát tội, vô hình chung đã bỏ lọt tội phạm, tạo ra sự không công bằng. Trong những trường hợp người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không thừa nhận việc biết tài sản đó là do phạm tội mà có thì cần phải phân tích hành vi của họ trên cơ sở đánh giá các yếu tố liên quan đến nhân thân của họ (tuổi đời, trình độ học vấn, tiền án, tiền sự, sức khỏe…), dựa vào các tình tiết khách quan mà đặc biệt mối quan hệ giữa họ với người phạm tội, việc giao dịch giữa người chứa chấp, tiêu thụ với người có tài sản, môi trường sống, làm việc, thời điểm, hoàn cảnh họ thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ, diễn biến hành vi phạm tội để xác định có biết rõ tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ có phải do phạm tội mà có hay không. Điều đó có nghĩa, khi chứng minh lỗi của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ phải xuất phát từ lỗi của họ khi thực hiện hành vi dựa trên các tình tiết khách quan của vụ án, chứ không phải chỉ xuất phát từ sự nhìn nhận của người phạm tội để làm căn cứ có phạm tội hay không. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung hướng dẫn tội Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo hướng liệt kê thêm các hành vi và hướng dẫn rõ căn cứ để chứng minh người phạm tội biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có là như thế nào, cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Phạm Minh Chí - Viện KSND huyện Châu Thành

Tạo mới bình luận

Mã bảo mật
Làm mới