Toàn cảnhkỳ họp Thứ 7, Quốc hội khóa XIII
Sáng nay, ngày 22/5/2014, Viện trưởng VKSND tối cao Nguyễn Hòa Bình đã trình bày tóm tắt Tờ trình Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) tại phiên họp toàn thể, kỳ họp Thứ 7, Quốc hội khóa XIII để Quốc hội cho ý kiến.
Tại Tờ trình Viện trưởng VKSND tối cao đã nêu rõ sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002:
Thực tiễn 10 năm thi hành Luật tổ chức VKSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002 cho thấy bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập cần được khắc phục, tháo gỡ.
Hiến pháp năm 2013 đã có những nội dung mới quan trọng về chế định VKSND; đồng thời, bổ sung, làm rõ những nguyên tắc mới, tiến bộ của tố tụng tư pháp liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKSND, đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND (sửa đổi).
Sửa đổi Luật tổ chức VKSND theo yêu cầu cải cách tư pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý đổi mới toàn diện về tổ chức và hoạt động của ngành, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự giám sát bên trong và bên ngoài hệ thống, nhất là sự giám sát của nhân dân và các cơ quan dân cử...
Sửa đổi Luật để đáp ứng yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, vị trí của VKSND tương đồng với Viện công tố/Viện kiểm sát các nước trên thế giới; tiếp thu hợp lý kinh nghiệm quốc tế.
Quá trình xây dựng Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi), đã quán triệt nghiêm túc 5 quan điểm chỉ đạo:
Một là, thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng liên quan đến VKSND.
Hai là, xây dựng Luật trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của VKSND; bảo đảm kế thừa truyền thống, kinh nghiệm của cơ quan kiểm sát của Nhà nước ta hơn 50 năm qua; khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Hiến pháp và Luật.
Balà, xây dựng Luật trên cơ sở đặc điểm cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước ta, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử và nhân dân; xây dựng hệ thống VKSND tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Bốn là, xây dựng Luật trên cơ sở Hiến pháp, thống nhất với các đạo luật hiện hành, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Năm là, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố/kiểm sát các nước trên thế giới và trong khu vực, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống văn hóa, pháp lý của nước ta.
Hoạt động xây dựng Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) được tiến hành công phu, bài bản, theo quy định pháp luật.
Nội dung Dự thảo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) có nhiều đổi mới
Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) có kết cấu gồm 07 chương, 13 mục, 107 điều. So với Luật tổ chức VKSND hiện hành, Dự thảo giảm 04 chương, tăng thêm 57 điều. Trong đó, sửa đổi 73 điều, bổ sung 34 điều mới, không có điều nào được giữ nguyên. Dự thảo Luật đã thu hút Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011) và Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002. Nội dung cụ thể của dự án Luật gồm:
Chương I: Những quy định chung,gồm có 10 điều, quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, các lĩnh vực công tác, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân.
Chương II: Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND,gồm có 30 điều, được chia thành 09 mục, quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.
Chương III: Tổ chức của VKSND,gồm có 10 điều, quy định về: hệ thống VKSND; phạm vi thẩm quyền, cơ cấu tổ chức và cán bộ của từng cấp Viện kiểm sát.
Chương IV: Cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của VKSND,gồm có 32 điều, được chia thành 04 mục, quy định chế độ pháp lý đối với các chức danh tư pháp của VKSND.
Chương V: Viện kiểm sát quân sự,gồm có 14 điều, quy định những vấn đề có tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của VKSQS.
Chương VI: Bảo đảm hoạt động của VKSND,gồm có 09 điều, quy định các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của VKSND và cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên của VKSND.
- Chương VII: Điều khoản thi hành,gồm có 02 điều, quy định về hiệu lực thi hành của Luật và trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật.
Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) có nhiều nội dung mới so với Luật tổ chức VKSND năm 2002:
Theo Tờ trình, Dự thảo Luật đã cụ thể hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và các quy định của Hiến pháp năm 2013, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận, cơ sở pháp lý cho hoạt động của ngành KSND, tháo gỡ nhiều khó khăn của thực tiễn, cụ thể:
Đã làm rõ vị trí, vai trò của VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm soát hoạt động tư pháp, có trách nhiệm phối hợp, kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, thi hành án(các điều 2, 3). Đồng thời, chịu sự giám sát của nhân dân và cơ quan dân cử (các điều 8, 9).
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Dự thảo Luật đã xác định rõ các nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của VKSND trong phát hiện, xử lý vi phạm trong hoạt động tư pháp (các điều 13, 15, 16, 18, 19, 20, 21, 23, 27, 30, 33); trách nhiệm quyết định việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân (Điều 15); tăng cường vai trò của VKSND trong các lĩnh vực phi hình sự (Điều 27); trong việc giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp (các điều 31, 32, 33).
Đãkế thừa và hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, cụ thể là đã làm rõ nội dung nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành Kiểm sát (các điều 6, 56, 57, 59, 60, 61), kết hợp nguyên tắc tập trung thống nhất với nguyên tắc tập trung dân chủ (các điều 44, 46, 48, 86, 89); làm rõ mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Viện trưởng trong việc thực hiện chức năng (khoản 3 Điều 6, Điều 68).
Về chức năng, nhiệm vụ: Dự thảo Luật đã lần đầu tiên quy định rõ đối tượng, nội dung, phạm vi, mục đích của từng chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 2). Đã cụ thể hóa cácnguyên tắc tư pháp tiến bộ được quy định trong Hiến pháp 2013 có liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKSND như nguyên tắc suy đoán vô tội, tranh tụng trong xét xử, nhờ người bào chữa, xét xử kịp thời, xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp…Theo đó, đã sửa đổi, bổ sung các quy định tăng cường vai trò của công tố ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmvà kiến nghị khởi tố (các điều 11, 12, 13); tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra (các điều 14, 15, 16, 20); xác định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND (Điều 21); xác định trách nhiệm tranh tụng tại phiên tòa (Điều 18). Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện các quyền của VKSND (các điều 5, 8).
Về tổ chức bộ máy: Dự thảo Luật quy định hệ thống VKSND gồm 4 cấp như Kết luận 79-KL/TW(Điều 41); kiện toàn tổ chức bộ máy ở VKSND khu vực (hoặc cấp huyện) một cách linh hoạt và phù hợp với yêu cầu tăng thẩm quyền cho cấp này (Điều 49); tổ chức Ủy ban kiểm sát ở các cấp một cách hợp lý, bảo đảm thực hiện tốt vai trò quyết định và tư vấn (các điều 43, 45, 47, 85, 88).
Về các chức danh tư pháp: Dự thảo Luật đã quy định rõ cơ cấu các chức danh tư pháp và chức danh khác của từng cấp Viện kiểm sát (các điều 43, 45, 47, 49, 85, 88, 91); đổi mới các quy định về tiêu chuẩn, nhiệm kỳ, ngạch, bậc, cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên (các điều 65, 66, 70, 71, 72, 73, 76, 77).
Về bảo đảm hoạt động của VKSND: Dự thảo Luật đã bổ sung nhiều quy định về bảo đảm các nguồn lực, chế độ, chính sách, công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật trong ngành KSND.
Về kỹ thuật lập pháp: Dự thảo Luật đã thu hút và quy định toàn diện các vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND, khắc phục được tình trạng nhiều văn bản tản mạn, chồng chéo; tránh trùng lặp với các luật về tố tụng, bảo đảm tính thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật.
Quá trình xây dựng Dự thảo Luật còn một số vấn đề có ý kiến khác nhau:
Về đổi mới mô hình VKSND cấp huyện (Khoản 4 Điều 41, Dự thảo Luật):
Dự thảo Luật xây dựng hai phương án mô hình VKSND cấp huyện, bao gồm: Phương án 1: tổ chức VKSND theo khu vực như Kết luận số 79-KL/TW; Phương án 2: tổ chức VKSND tại các đơn vị hành chính cấp huyện. Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
Đa số ý kiến cho rằng: việc tổ chức VKSND cấp huyện như phương án 2 là phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Các lĩnh vực công tác của cấp kiểm sát này đòi hỏi mối quan hệ chặt chẽ với Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, trong khi các cơ quan này vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức gắn liền với các đơn vị hành chính như hiện nay. Tổ chức VKSND cấp huyện là cơ sở quan trọng để thực hiện tốt yêu cầu của Đảng về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra; bảo đảm yêu cầu xây dựng nền tư pháp gần dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận công lý, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả người dân, Nhà nước và xã hội.
Một số ý kiến cho rằng: cần tổ chức VKSND theo khu vực để tăng cường tính độc lập của cơ quan tư pháp, tập trung nguồn lực, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 41 dự thảo Luật.
Về vai trò của Ủy ban kiểm sát (các điều 44, 46, 48, 86, 89 dự thảo Luật):
Theo quy định hiện hành, Ủy ban kiểm sát có nhiệm vụ thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của VKSND như phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác hàng năm; xây dựng các dự án luật, pháp lệnh; báo cáo của Viện trưởng VKSND trước cơ quan dân cử…, xem xét và quyết định những vụ án hình sự, dân sự, hành chính quan trọng. Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
Đa số ý kiếnđề nghị:tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có vai trò như hiện nay. Riêng đối với việc giải quyết án, Ủy ban kiểm sát có trách nhiệm thảo luận và cho ý kiến trước khi Viện trưởng quyết định.Thủ tục lấy ý kiến Ủy ban kiểm sát là bắt buộc, nhằm kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ với nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành, phát huy tác dụng tích cực của cơ chế Ủy ban kiểm sát, đồng thời, phù hợp với quy định của các luật tố tụng về tư cách tiến hành tố tụng và nguyên tắc chịu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp của Viện trưởng VKSND.
Một số ý kiến đề nghị:tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có vai trò thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng không quy định trong Luật vai trò của Ủy ban kiểm sát đối với việc giải quyết án để tạo quyền chủ động cho Viện trưởng.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại các điều 44, 46, 48, 86, 89dự thảo Luật.
Về nhiệm vụ của Kiểm sát viên (Điều 63 dự thảo Luật):Khoản 1 Điều 42 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: “Kiểm sát viên được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
Đa số ý kiếnđề nghị: Kiểm sát viên chỉ được bổ nhiệm để làm các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, để gắn với chức danh tư pháp, đề cao vai trò, trách nhiệm của chức danh Kiểm sát viên.
Một số ý kiến đề nghị: ngoài các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên còn được bổ nhiệm để thực hiện cácnhiệm vụ đặc thù theo sự phân công của Viện trưởng, nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn điều động, luân chuyển Kiểm sát viên, tạo tính chủ động, linh hoạt trong bố trí, sử dụng cán bộ, rèn luyện đội ngũ Kiểm sát viên, nâng cao chất lượng các lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát. Những nhiệm vụ đặc thù gồm: tham mưu, tổng hợp, nghiên cứu, đào tạo, xây dựng và hướng dẫn thực thi pháp luật.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 63 dự thảo Luật.
Về nhiệm kỳ của Kiểm sát viên (Điều 66 dự thảo Luật):Theo quy định hiện hành, nhiệm kỳ của Kiểm sát viên là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm. Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
Đa số ý kiếnđề nghị: Kiểm sát viên VKSND tối cao được bổ nhiệm không thời hạn vì đây là các cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, đã được sàng lọc qua nhiều ngạch, bậc Kiểm sát viên. Kiểm sát viên các ngạch khác được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
Một số ý kiến đề nghị: tất cả các Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu đều có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm để bảo đảm cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với tất cả các Kiểm sát viên.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 66 dự thảo Luật.
Tại hội trường sáng nay, ngay sau khi Viện trưởng VKSND tối cao trình bày Tờ trình Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Quốc hội đã nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Văn Hiện trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi). Báo cáo thẩm tra đã ghi nhận sự nỗ lực cố gắng của VKSND tối cao trong quá trình xây dựng Dự án Luật và cơ bản nhất trí với Dự thảo Luật.
Theo chương trình làm việc của kỳ họp Thứ 7, Quốc hội khóa XIII, buổi chiều cùng ngày, các Đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ về Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) và dự án Luật tổ chức TAND (sửa đổi). Đến sáng ngày 05/6/2014, Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi).
Phúc Long
(Nguồn vksndtc.gov.vn)